BÀI BÁO QUỐC TẾ

Tác động qua lại giữa trung gian tài chính và các hiệp định thương mại khu vực đối với thương mại quốc tế

13:17 26/05/2021

Một nghiên cứu đến từ giảng viên Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN đã xác định được tác động qua lại giữa trung gian tài chính và các hiệp định thương mại khu vực đối với thương mại quốc tế thông qua mô hình trọng lực cổ điển.

“Tác động qua lại giữa trung gian tài chính và các hiệp định thương mại khu vực đối với thương mại quốc tế” là nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Đức Bảo (Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN) và Anne‐Gaël Vaubourg (Đại học Poitiers, CH Pháp) vừa được công bố chính thức đầu năm 2021(1) trên tạp chí The World Economy, Wiley Blackwell - tạp chí thuộc nhóm Q1 (top 25%) theo phân loại của Tổ chức xếp hạng các cơ sở nghiên cứu khoa học SCImago. 

Mục đích của bài báo này nhằm xác định liệu những tác động thuận lợi của trung gian tài chính đối với xuất khẩu có bị suy yếu khi chi phí xuất khẩu thấp, tức là trong trường hợp hai quốc gia này cùng tham giao vào một hiệp định thương mại tự do (FTA). Ước tính mô hình trọng lực trên dữ liệu thu thập từ 69 quốc gia phát triển và đang phát triển trên thế giới trong giai đoạn 1986-2006, tác giả chỉ ra rằng hiệu ứng thúc đẩy thương mại từ trung gian tài chính ở quốc gia xuất khẩu sẽ yếu hơn khi tồn tại một FTA giữa đối tác xuất khẩu và nhập khẩu. Tác giả cũng chứng minh tác động giảm thiểu của trung gian tài chính được mô tả ở trên sẽ thể hiện ở một mức độ yếu hơn đối với các lĩnh vực, mặt hàng bị hạn chế về tài chính, trong đó việc tiếp cận các nguồn vốn từ bên ngoài vẫn đóng vai trò quan trọng. Cuối cùng, tác giả thu được bằng chứng cho thấy mức độ trung gian tài chính ở nước nhập khẩu cũng tạo ra hiệu ứng tương đồng như tại nước xuất khẩu lên kim ngạch xuất khẩu từ quốc gia xuất khẩu tới đối tác nhập khẩu.

Trung gian tài chính trong bài báo này được đo lường bởi tỉ suất của các nguồn tài chính tài trợ cho khu vực tư nhân bởi các tổ chức tài chính (như ngân hàng có nợ phải trả dưới hình thức tiền gửi có thể chuyển nhượng) trên GDP, hoặc rộng hơn là tỷ suất của các nguồn tài chính cung cấp cho khu vực tư nhân bởi các tổ chức tài chính khác (như ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng hợp tác, ngân hàng cầm cố, công ty tài chính) và các tổ chức tài chính phi ngân hàng (các tổ chức trung gian gây quỹ trên thị trường tài chính, chẳng hạn như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư bất động sản, quỹ tương hỗ và ngân hàng phát triển) trên GDP.

Đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên xác định tác động qua lại giữa trung gian tài chính và các hiệp định thương mại khu vực đối với thương mại quốc tế thông qua mô hình trọng lực cổ điển. Bài báo đóng góp vào chuỗi các nghiên cứu liên quan tới việc chứng minh tương tác giữa các quy định tài chính và độ mở thương mại ảnh hưởng đáng kể đến dòng chảy thương mại (Manova, 2008), năng suất (Peters & Schnitzer, 2015; Taylor, 2010; Topalova & Khandelwal, 2011) và tăng trưởng (Chang, Kaltani & Loayza, 2009).

Kết quả của tác giả thể hiện rằng việc thúc đẩy trung gian tài chính tại thị trường nội địa và có một đối tác thương mại có trình độ trung gian tài chính cao là vô cùng quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là khi các đối tác không cùng tham gia vào các hiệp định thương mại tự do. Những phát hiện của tác giả trong bài báo cũng củng cố thêm cho quan điểm việc phát triển trung gian tài chính sẽ hiệu quả hơn trong việc thúc đẩy thương mại đối với các sản phẩm bị hạn chế về tài chính nhất, so với việc phát triển thị trường tài chính dựa trên thị trường chứng khoán (Allen & Gale, 2000).

Nhóm tác giả cho biết: “Nghiên cứu này có thể được làm phong phú và phát triển thêm theo nhiều cách. Đầu tiên, chúng tôi có thể nghĩ tới việc khám phá cơ sở lý thuyết cho những tương tác này. Thứ hai, trong khi bài nghiên cứu đề cập tới trung gian tài chính, sẽ rất thú vị nếu các nghiên cứu tiếp theo có thể khai thác chủ đề ổn định tài chính và xem xét cách thức tương tác của yếu tố này với các FTA sẽ tác động thế nào tới hoạt động xuất khẩu”./.

 ____________________

(1) Bạn đọc có thể đọc toàn văn công bố tại link:

https://onlinelibrary.wiley.com/doi/abs/10.1111/twec.13010

hoặc https://www.researchgate.net/publication/343143545_Financial_intermediation_trade_agreements_and_international_trade

Vài nét về TS. Nguyễn Đức Bảo:

TS. Nguyễn Đức Bảo hiện là giảng viên Bộ môn Quản lý kinh tế, Khoa Kinh tế Chính trị. TS. Đức Bảo nhận bằng cử nhân hạng xuất sắc chuyên ngành Kinh tế đối ngoại tại Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội năm 2014. Thông qua Chương trình học bổng của Chính phủ Cộng hoà Pháp, TS. Đức Bảo đã nhận bằng Thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế - Tài chính quốc tế và Tiến sĩ ngành Kinh tế tại Đại học Bordeaux (CH Pháp) lần lượt vào năm 2015 và năm 2019.

Trước khi trở thành giảng viên tại Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN từ tháng 8/2020, TS. Đức Bảo đã đảm nhận công tác giảng dạy và nghiên cứu tại Viện Kinh tế Ứng dụng (GREThA), Đại học Bordeaux. TS. Đức Bảo đã tham gia nhiều hoạt động tư vấn nghiên cứu trong các dự án hợp tác nghiên cứu quốc tế tại Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực thế giới (FAO Châu Á - Thái Bình Dương) và Viện Nghiên cứu Chính sách Thực phẩm quốc tế (IFPRI). Nghiên cứu của TS. Đức Bảo tập trung vào các chủ đề liên quan tới thương mại quốc tế, toàn cầu hoá, khu vực hoá, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, kinh tế phát triển, kinh tế nông nghiệp. TS. Đức Bảo đã công bố 3 bài báo quốc tế trên các tạp chí khoa học uy tín thuộc danh mục SSCI/Scopus.

 

Hành vi và thái độ của nông dân đối với việc thích ứng với biến đổi khí hậu: Bằng chứng từ nông dân sản xuất nhỏ ở Việt Nam

Hành vi và thái độ của nông dân đối với việc thích ứng với biến đổi khí hậu: Bằng chứng từ nông dân sản xuất nhỏ ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, tác động của biến đổi khí hậu đến đời sống con người đã được thừa nhận rộng rãi, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Nông nghiệp ...

Chi tiết
Việc thực hành ESG thúc đẩy doanh số bán hàng như thế nào? Bằng chứng thực nghiệm từ các doanh nghiệp toàn cầu

Việc thực hành ESG thúc đẩy doanh số bán hàng như thế nào? Bằng chứng thực nghiệm từ các doanh nghiệp toàn cầu

Nghiên cứu này đánh giá mức độ ảnh hưởng của hành vi thực hiện ESG của doanh nghiệp (E - Bảo vệ môi trường, S- Xã hội và G - Quản trị công ty) tới sự thay ...

Chi tiết
Một cuộc điều tra phân tích tổng hợp về mối quan hệ giữa trí tuệ cảm xúc và thao tác cảm xúc

Một cuộc điều tra phân tích tổng hợp về mối quan hệ giữa trí tuệ cảm xúc và thao tác cảm xúc

Nghiên cứu này xem xét mặt tối có thể có của trí tuệ cảm xúc (EI). Cụ thể, một cuộc điều tra phân tích tổng hợp với 5.687 người tham gia đã được tiến hành ...

Chi tiết
Xác định và đánh giá các nguyên nhân khiếu nại chính dẫn đến chậm trễ trong xây dựng

Xác định và đánh giá các nguyên nhân khiếu nại chính dẫn đến chậm trễ trong xây dựng

Nguyên nhân khiếu nại có thể dẫn đến sự chậm trễ nghiêm trọng trong xây dựng. Hiện chưa có nghiên cứu nào được thực hiện để xác định nguyên nhân khiếu ...

Chi tiết
Sự phụ thuộc theo không gian - thời gian của tham nhũng: Nghiên cứu tại Việt Nam

Sự phụ thuộc theo không gian - thời gian của tham nhũng: Nghiên cứu tại Việt Nam

Để xem xét sự phụ thuộc theo không gian - thời gian của tham nhũng và điều tra các yếu tố bên ngoài không gian đối với mức độ tham nhũng ở các khu vực ...

Chi tiết
Báo cáo của doanh nghiệp liên quan đến biến đổi khí hậu và chi phí vốn của doanh nghiệp

Báo cáo của doanh nghiệp liên quan đến biến đổi khí hậu và chi phí vốn của doanh nghiệp

Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất của thế giới do nó gây thiệt hại đáng kể cho hệ sinh thái và các mối đe dọa tiềm tàng đối với sức ...

Chi tiết
Kiểm chứng hiệu ứng lan tỏa giữa biến động giá dầu, lợi nhuận thị trường chứng khoán và tâm lý nhà đầu tư: Bằng chứng thực nghiệm từ Mỹ và Việt Nam

Kiểm chứng hiệu ứng lan tỏa giữa biến động giá dầu, lợi nhuận thị trường chứng khoán và tâm lý nhà đầu tư: Bằng chứng thực nghiệm từ Mỹ và Việt Nam

Tâm lý từ lâu đã được biết đến là một yếu tố quan trọng trong tài chính hành vi, có thể ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường chứng khoán. Sử dụng dữ ...

Chi tiết
So sánh sự tăng trưởng, cấu trúc và sự đa dạng sinh học giữa các phương thức trồng rừng hỗn giao và trồng rừng thuần loài ở Philippines

So sánh sự tăng trưởng, cấu trúc và sự đa dạng sinh học giữa các phương thức trồng rừng hỗn giao và trồng rừng thuần loài ở Philippines

Trong thế kỷ qua, rừng nhiệt đới đã bị suy giảm nhanh chóng, với 350 triệu ha rừng bị chặt phá và 500 triệu ha rừng bị suy thoái. Philippines là một quốc ...

Chi tiết