BÀI BÁO QUỐC TẾ

Mở rộng giáo dục và giá trị kinh tế của giáo dục đại học ở Việt Nam: Phân tích không cần biến công cụ

Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN 14:28 29/11/2023

Mục tiêu của nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của chính sách mở rộng giáo dục đại học tới thị trường lao động. Câu hỏi nghiên cứu là cùng với việc cánh cửa vào đại học trở nên dễ dàng hơn, liệu tỷ lệ lao động có bằng đại học tăng lên có dẫn đến việc thị trường lao động dành cho lao động trí thức bị bão hòa hay không? Tỷ suất sinh lợi của giáo dục đại học đã thay đổi như thế nào trong hơn 10 năm qua, khi mà trước đây việc bước vào đại học là cánh cửa hẹp dành cho một số học sinh xuất sắc, còn cho đến gần đây, nhiều trường đại học mới đã được thành lập và các trường lớn đều tăng chỉ tiêu tuyển sinh, dẫn đến việc vào đại học trở nên dễ dàng hơn rất nhiều?

Nghiên cứu sử dụng số liệu trong hơn 10 năm từ 2002 đến 2014 để quan sát sự thay đổi tương đối tỷ suất sinh lợi giáo dục của mỗi cá nhân trong mối quan hệ với chính sách mở rộng giáo dục đại học. Số liệu được thu thập từ hai nguồn: dữ liệu 6 vòng điều tra VHLSS trong các năm 2002, 2004, 2006, 2008, 2010, 2012 và 2014, kết hợp với số liệu thống kê về số lượng sinh viên và học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học ở mỗi tỉnh/thành phố tại thời điểm tương ứng. Để giải quyết vấn đề trên, thay vì sử dụng biến công cụ truyền thống cho chính sách, nghiên cứu mã hóa số năm đi học của mỗi cá nhân trong nhóm tuổi tương ứng thành một điểm tỷ lệ. Đồng thời, nghiên cứu cũng sử dụng một biến tương đối là tỷ lệ người có bằng đại học theo nhóm tuổi. Điều này cho phép quan sát sự thay đổi tương đối của mỗi cá nhân trong mối quan hệ với chính sách mỏ rộng giáo dục đại học. Từ đó, nghiên cứu tính toán tác động của việc mở rộng giáo dục đại học đối với thị trường lao động.

Toàn văn bài báo được đăng tải trên International Journal of Educational Research Open, 2, 100025.

Nghiên cứu chỉ ra rằng chính sách mở rộng giáo dục đại học không làm thay đổi tuyệt đối nhưng lại làm thay đổi tương đối mức tiền lương trên thị trường lao động. Nói cách khác, thị trường lao động Việt Nam đang vận hành theo hướng là trình độ học vấn tuyệt đối của mỗi cá nhân không còn là yếu tố quyết định, mà điều quan trọng là so sánh tương đối giữa bằng cấp của cá nhân với những người cùng trình độ khác. Điều này có thể là kết quả của một vài nguyên nhân. Thứ nhất, nguồn cung ứng viên tốt nghiệp đại học đang tăng nhanh hơn so với nhu cầu về lao động trình độ đại học trên thị trường lao động. Nếu đúng như vậy, sự mất cân đối giữa cung và cầu của lao động có trình độ cao trên thị trường lao động sẽ dẫn đến mức lương thấp hơn cho cử nhân đại học trong các ngành có lượng lao động dôi dư. Một khả năng khác giải thích cho hiện tượng này là do chất lượng của các chương trình đào tạo giáo dục đại học có xu hướng giảm sút. Trong quá trình mở rộng giáo dục đại học, các cơ sở giáo dục đại học, đặc biệt là các cơ sở tư nhân, có thể phải đánh đổi giữa số lượng và chất lượng sinh viên tốt nghiệp của họ. Như trong nghiên cứu đã đề cập, các yếu tố chính về phía cung góp phần vào việc mở rộng giáo dục đại học ở Việt Nam là việc bãi bỏ quy định chặt chẽ về chỉ tiêu và sự nở rộ của các cơ sở giáo dục ngoài công lập trong giáo dục đại học. Một lý do khác gây ra khó khăn trong việc tìm việc làm của sinh viên tốt nghiệp đại học là sự không phù hợp giữa kỹ năng và kiến thức của họ với nhu cầu của thị trường lao động. Kết quả khảo sát mức độ hài lòng của nhà tuyển dụng đối với chất lượng sinh viên mới tốt nghiệp tại 60 doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (dựa trên kiến thức lý thuyết, kỹ năng thực hành, trình độ ngoại ngữ, tác phong làm việc và năng lực chuyên môn) cho thấy chỉ 5% tổng số học sinh tham gia khảo sát được đánh giá ở mức khá, 40% ở mức không đạt. Điều này nhấn mạnh sự không phù hợp của các chương trình đào tạo giáo dục đại học trong việc trang bị cho sinh viên những kỹ năng và kiến thức cần thiết để tham gia vào thị trường lao động. Việc xây dựng các chương trình đào tạo bám sát nhu cầu thị trường cũng như vai trò của Nhà nước trong việc định hướng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông là một vài gợi ý chính sách được đề xuất trong nghiên cứu này.

>>> THÔNG TIN BÀI BÁO

Thu Ha Truong, Keiichi Ogawa, Jean-Baptiste M. B. Sanfo (2021). Educational Expansion and the Economic Value of Education in Vietnam: An Instrument-Free Analysis.
International Journal of Educational Research Open, 2, 100025. https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S266637402030025X

>>> GIỚI THIỆU TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

TS. Trương Thu Hà hiện là giảng viên Bộ môn Chính sách công thuộc Khoa Kinh tế Phát triển, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Bà là Tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế Giáo dục, với các hướng nghiên cứu chính gồm: Chính sách công, kinh tế giáo dục, bất bình đẳng và đói nghèo.
Hành vi và thái độ của nông dân đối với việc thích ứng với biến đổi khí hậu: Bằng chứng từ nông dân sản xuất nhỏ ở Việt Nam

Hành vi và thái độ của nông dân đối với việc thích ứng với biến đổi khí hậu: Bằng chứng từ nông dân sản xuất nhỏ ở Việt Nam

Trong những năm gần đây, tác động của biến đổi khí hậu đến đời sống con người đã được thừa nhận rộng rãi, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Nông nghiệp ...

Chi tiết
Việc thực hành ESG thúc đẩy doanh số bán hàng như thế nào? Bằng chứng thực nghiệm từ các doanh nghiệp toàn cầu

Việc thực hành ESG thúc đẩy doanh số bán hàng như thế nào? Bằng chứng thực nghiệm từ các doanh nghiệp toàn cầu

Nghiên cứu này đánh giá mức độ ảnh hưởng của hành vi thực hiện ESG của doanh nghiệp (E - Bảo vệ môi trường, S- Xã hội và G - Quản trị công ty) tới sự thay ...

Chi tiết
Một cuộc điều tra phân tích tổng hợp về mối quan hệ giữa trí tuệ cảm xúc và thao tác cảm xúc

Một cuộc điều tra phân tích tổng hợp về mối quan hệ giữa trí tuệ cảm xúc và thao tác cảm xúc

Nghiên cứu này xem xét mặt tối có thể có của trí tuệ cảm xúc (EI). Cụ thể, một cuộc điều tra phân tích tổng hợp với 5.687 người tham gia đã được tiến hành ...

Chi tiết
Xác định và đánh giá các nguyên nhân khiếu nại chính dẫn đến chậm trễ trong xây dựng

Xác định và đánh giá các nguyên nhân khiếu nại chính dẫn đến chậm trễ trong xây dựng

Nguyên nhân khiếu nại có thể dẫn đến sự chậm trễ nghiêm trọng trong xây dựng. Hiện chưa có nghiên cứu nào được thực hiện để xác định nguyên nhân khiếu ...

Chi tiết
Sự phụ thuộc theo không gian - thời gian của tham nhũng: Nghiên cứu tại Việt Nam

Sự phụ thuộc theo không gian - thời gian của tham nhũng: Nghiên cứu tại Việt Nam

Để xem xét sự phụ thuộc theo không gian - thời gian của tham nhũng và điều tra các yếu tố bên ngoài không gian đối với mức độ tham nhũng ở các khu vực ...

Chi tiết
Báo cáo của doanh nghiệp liên quan đến biến đổi khí hậu và chi phí vốn của doanh nghiệp

Báo cáo của doanh nghiệp liên quan đến biến đổi khí hậu và chi phí vốn của doanh nghiệp

Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất của thế giới do nó gây thiệt hại đáng kể cho hệ sinh thái và các mối đe dọa tiềm tàng đối với sức ...

Chi tiết
Kiểm chứng hiệu ứng lan tỏa giữa biến động giá dầu, lợi nhuận thị trường chứng khoán và tâm lý nhà đầu tư: Bằng chứng thực nghiệm từ Mỹ và Việt Nam

Kiểm chứng hiệu ứng lan tỏa giữa biến động giá dầu, lợi nhuận thị trường chứng khoán và tâm lý nhà đầu tư: Bằng chứng thực nghiệm từ Mỹ và Việt Nam

Tâm lý từ lâu đã được biết đến là một yếu tố quan trọng trong tài chính hành vi, có thể ảnh hưởng đến hoạt động của thị trường chứng khoán. Sử dụng dữ ...

Chi tiết
So sánh sự tăng trưởng, cấu trúc và sự đa dạng sinh học giữa các phương thức trồng rừng hỗn giao và trồng rừng thuần loài ở Philippines

So sánh sự tăng trưởng, cấu trúc và sự đa dạng sinh học giữa các phương thức trồng rừng hỗn giao và trồng rừng thuần loài ở Philippines

Trong thế kỷ qua, rừng nhiệt đới đã bị suy giảm nhanh chóng, với 350 triệu ha rừng bị chặt phá và 500 triệu ha rừng bị suy thoái. Philippines là một quốc ...

Chi tiết