BÀI BÁO QUỐC TẾ

Tác động lâu dài của chiến tranh đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển kinh tế: Bằng chứng từ Việt Nam

P. NCKH&HTPT tổng hợp 11:24 12/06/2025

Hơn 15 triệu tấn bom đạn được sử dụng trong ba cuộc chiến tranh đã để lại hậu quả nặng nề cho Việt Nam, với gần 19% diện tích đất vẫn còn bị ô nhiễm bom mìn chưa nổ (UXO). Bài báo “The long-term effects of war on foreign direct investment and economic development: evidence from Vietnam” công bố trên tạp chí Journal of Urban Economics do PGS.TS. Vũ Văn Hưởng - giảng viên UEB và cộng sự thực hiện, sử dụng phương pháp ước lượng biến công cụ với dữ liệu cấp doanh nghiệp và cấp tỉnh để phân tích ảnh hưởng của UXO đến FDI và phát triển kinh tế. Kết quả cho thấy: cứ mỗi 1% gia tăng diện tích đất bị ô nhiễm UXO, mật độ doanh nghiệp FDI giảm 0,69%, mật độ doanh nghiệp liên doanh FDI giảm 0,56%, và cường độ ánh sáng ban đêm – chỉ báo gián tiếp cho phát triển kinh tế – giảm 0,38%. Nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm mới cho thấy hậu quả chiến tranh không chỉ kéo dài mà còn cản trở thu hút đầu tư và tăng trưởng tại các địa phương chịu ảnh hưởng.

Trải qua ba cuộc chiến tranh, hơn 15 triệu tấn thuốc nổ đã được sử dụng ở Việt Nam, gấp 4 lần số lượng được sử dụng trong Thế chiến II (Martin và cộng sự, 2019). Hiện nay, các bom mìn còn sót lại được tìm thấy ở hầu hết các địa phương trên khắp đất nước, bao gồm đồng bằng, rừng núi, dưới nước và ngoài biển sâu. Theo thống kê từ Trung tâm Hành động bom mìn quốc gia Việt Nam (VNMAC, 2021), khoảng 800.000 tấn bom mìn chưa được rà phá, gây ô nhiễm cho khoảng 6,1 triệu ha đất, chiếm khoảng 18,71% tổng diện tích cả nước. Với tỷ lệ bom hỏng là 30% (Trung tâm Dữ liệu vệ tinh Khoa học Môi trường, 2021), Việt Nam bị ô nhiễm bom mìn chưa nổ nghiêm trọng (Martin và cộng sự, 2019). Sự xuất hiện liên tục của bom mìn và chất nổ còn sót lại đã gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế và tình hình xã hội ở Việt Nam. Nó ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, khai thác mỏ, phát triển thủy điện, xây dựng đường, trường học và chăm sóc sức khỏe (Martin và cộng sự, 2019). Trong bối cảnh đó, nghiên cứu cung cấp những kết quả mới về tác động dài hạn của ô nhiễm bom mìn sau chiến tranh ở Việt Nam đến đầu tư trực tiếp nước ngoài và phát triển kinh tế. Nghiên cứu sử dụng cách tiếp cận ước lượng biến công cụ đối với các nguồn dữ liệu vi mô ở mức độ doanh nghiệp và tỉnh. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng một sự gia tăng 1% trong diện tích đất bị ô nhiễm UXO có thể dẫn đến giảm 0.69% mật độ công ty FDI trong các khu vực bị ảnh hưởng. Thêm nữa, các công ty liên doanh FDI cũng bị tác động tiêu cực, với sự giảm sút 0.56% trong mật độ. Cuối cùng, cường độ ánh sáng ban đêm – một chỉ số gián tiếp đo lường mức độ phát triển kinh tế tại các khu vực – cũng giảm 0.38% khi tỷ lệ đất bị ô nhiễm UXO tăng thêm 1%.

 

Toàn văn bài báo công bố trên tạp chí Journal of Urban Economics, Vol. 143, 103680. 

Đóng góp mới của bài báo

Nghiên cứu của nhóm tác giả cung cấp bằng chứng mới cho thấy UXO có thể ngăn cản dòng vốn FDI cũng như đầu tư của các công ty quy mô lớn và từ đó cản trở sự phát triển kinh tế địa phương. Trong khi Miguel và Roland (2011) không tìm thấy bằng chứng về hậu quả lâu dài của cuộc ném bom của Hoa Kỳ ở Việt Nam 25 năm sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, nghiên cứu của nhóm tác giả chỉ ra tác động tiêu cực của chiến tranh đối với sự phát triển kinh tế địa phương sau này. Nghiên cứu này cũng gợi ý một cơ chế mới mà qua đó chiến tranh có thể tác động đến sự phát triển kinh tế lâu dài ở Việt Nam và có thể ở các quốc gia khác có bối cảnh tương tự.

Thứ hai, nghiên cứu của nhóm tác giả đóng góp vào các nghiên cứu về các yếu tố quyết định mật độ doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI. Do vai trò quan trọng của FDI, một số nghiên cứu đã khám phá các yếu tố thu hút FDI (ví dụ: Azzimonti, 2019; Egger và Winner, 2006; Haufler và cộng sự, 2018). Nghiên cứu đóng góp vào khoảng trống tri thức bằng cách chỉ ra tác động tiêu cực lâu dài của chiến tranh đối với dòng FDI cục bộ trong một quốc gia. Ảnh hưởng của các thuộc tính địa lý đến sự lựa chọn vị trí của một công ty đã được nghiên cứu chủ yếu trong kinh tế học tân cổ điển (John và cộng sự, 2011; Papageorgiou và Thisse, 1985; Zheng và Shi, 2018). Người ta tin rằng các công ty tìm kiếm địa điểm tốt nhất để tối đa hóa lợi nhuận nói chung. Theo nghĩa này, các lý thuyết về vị trí cho rằng chi phí vận chuyển, cạnh tranh thị trường, sử dụng đất và vị trí công nghiệp đều có liên quan (John và cộng sự, 2011; Papageorgiou và Thisse, 1985; Zheng và Shi, 2018). Nghiên cứu cho thấy rằng chiến tranh đã dẫn đến hậu quả tiêu cực lâu dài đối với mật độ công ty do sự hiện diện của UXO khiến các công ty không muốn đặt cơ sở tại các địa điểm bị ô nhiễm UXO. Điều này có thể được giải thích bởi thực tế là việc tìm kiếm và loại bỏ các chất nổ còn sót lại của chiến tranh cực kỳ tốn kém, đòi hỏi phải đầu tư đáng kể vào cơ sở hạ tầng (Phụng, 2020). Do đó, các công ty không muốn sử dụng các khu vực bị ô nhiễm vì UXO, đặc biệt là đối với các dự án lớn đòi hỏi cơ sở hạ tầng đáng kể.

Thứ ba, nghiên cứu làm rõ vai trò của FDI trong phát triển kinh tế. Mối quan hệ giữa FDI và phát triển kinh tế là một chủ đề gây tranh cãi gay gắt trong các nghiên cứu trước đây (Chen và cộng sự, 2010; Ketteni và Kottaridi, 2019; Makiela và Ouattara, 2018; Meyer, 2004). Một mặt, người ta thường cho rằng FDI thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của quốc gia tiếp nhận bằng cách tạo điều kiện chuyển giao công nghệ, phát triển vốn con người, tạo ra việc làm mới, giảm nghèo, thúc đẩy năng suất và mở rộng xuất khẩu (ví dụ: Anwar và Nguyen, 2014; Caves, 1974; Cipollina và cộng sự, 2012). Mặt khác, FDI có thể có một số hậu quả tiêu cực tiềm tàng đối với nước tiếp nhận, bao gồm sự phụ thuộc vào vốn nước ngoài, sự bất ổn trong dòng vốn FDI, sự chuyên môn hóa trong các lĩnh vực công nghệ thấp và sự kìm hãm các công ty mới bản địa (Borensztein và cộng sự, 1998; Chen và cộng sự, 2010). Phát hiện nghiên cứu của nhóm tác giả ủng hộ vai trò tích cực của FDI bằng cách đưa ra bằng chứng về mối liên hệ tích cực giữa mật độ FDI và phát triển kinh tế địa phương (được đo bằng cường độ ánh sáng ban đêm) trên khắp các huyện ở Việt Nam.

Tóm lại, nghiên cứu này không chỉ cung cấp bằng chứng khoa học về những hậu quả lâu dài của chiến tranh mà còn giúp hình thành các chính sách phát triển kinh tế bền vững cho những khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực thu hút FDI và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt tại những khu vực chịu tác động từ chiến tranh.

 

>>> THÔNG TIN BÀI BÁO

Cuong Viet Nguyen, Tuyen Quang Tran, Huong Van Vu (2024), The long-term effects of war on foreign direct investment and economic development: evidence from Vietnam. Journal of Urban Economics, Vol. 143, 103680. https://doi.org/10.1016/j.jue.2024.103680

>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

PGS.TS. Vũ Văn Hưởng hiện là Chủ nhiệm Bộ môn Thống kê và Phương pháp nghiên cứu Kinh tế, Khoa Kinh tế Phát triển.  PGS.TS. Vũ Văn Hưởng được bổ nhiệm chức danh phó giáo sư ngành Kinh tế tại Trường ĐHKT - ĐHQGHN năm 2022; nhận học vị Tiến sĩ Kinh tế tại trường Đại học tổng hợp Waikato, New Zealand năm 2014. Ông có kinh nghiệm làm việc tại một số quốc gia như Anh, Mỹ, Ý và New Zealand thông qua các hoạt động giảng dậy hoặc tham gia các dự án nghiên cứu. Các hướng nghiên cứu chính của ông gồm: Phân tích năng suất và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, Ô nhiễm bom mìn, sinh kế và phúc lợi hộ gia đình. Ông hiện là thành viên hội đồng khoa học quốc gia ngành Kinh tế (Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia - NAFOSTED).

Vai trò của chánh niệm trong việc thúc đẩy ý định mua hàng

Vai trò của chánh niệm trong việc thúc đẩy ý định mua hàng

Nghiên cứu “The role of mindfulness in promoting purchase intention” của Nguyễn Thu Hà, Hoàng Đàm Lương Thúy và cộng sự công bố trên Spanish Journal of ...

Chi tiết
Sự tự tin thái quá của Giám đốc tài chính (CFO) và hành vi quản trị lợi nhuận

Sự tự tin thái quá của Giám đốc tài chính (CFO) và hành vi quản trị lợi nhuận

Bài nghiên cứu “Chief Financial Officer Overconfidence and Earnings Management” của Nguyễn Huy Tâm và cộng sự công bố trên tạp chí Accounting Forum (2023) ...

Chi tiết
Góc nhìn giới tính của CEO trong quản trị khí hậu và môi trường: Tổng quan hệ thống và phân tích thư mục

Góc nhìn giới tính của CEO trong quản trị khí hậu và môi trường: Tổng quan hệ thống và phân tích thư mục

Bài nghiên cứu “CEO Gender Perspectives in Climate and Environmental Governance: A Systematic Literature Review and Bibliometric Analysis” của Nguyễn Huy ...

Chi tiết
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sẵn lòng chi trả của người dân đối với các dịch vụ môi trường rừng ngập mặn tại Phù Long, Việt Nam

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự sẵn lòng chi trả của người dân đối với các dịch vụ môi trường rừng ngập mặn tại Phù Long, Việt Nam

Nghiên cứu “Factors influencing residents’ willingness to pay for mangrove forest environmental services in Phu Long, Vietnam” của Lưu Quốc Đạt - giảng ...

Chi tiết
Sự sẵn lòng chi trả của các hộ gia đình cho các dịch vụ môi trường rừng ngập mặn: Bằng chứng từ Phù Long, Đông Bắc Việt Nam

Sự sẵn lòng chi trả của các hộ gia đình cho các dịch vụ môi trường rừng ngập mặn: Bằng chứng từ Phù Long, Đông Bắc Việt Nam

Nghiên cứu “Households’ willingness-to-pay for mangrove environmental services: Evidence from Phu Long, Northeast Vietnam” của Lưu Quốc Đạt - giảng viên ...

Chi tiết
Rủi ro địa chính trị và phần bù tỷ giá hối đoái tiền điện tử: Hàm ý đối với hiện tượng tháo chạy vốn

Rủi ro địa chính trị và phần bù tỷ giá hối đoái tiền điện tử: Hàm ý đối với hiện tượng tháo chạy vốn

Bài nghiên cứu “The impact of social responsibility on the competitive advantage of small and medium-sized enterprises in Hanoi, Vietnam” của Nguyễn Đình ...

Chi tiết
Tác động của chuyển đổi số dựa trên đổi mới sáng tạo đến hiệu quả xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs)

Tác động của chuyển đổi số dựa trên đổi mới sáng tạo đến hiệu quả xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs)

Nghiên cứu “The Impact of Innovation-Driven Digital Transformation on Export Performance of SMEs” của Đỗ Thị Thơ - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và ...

Chi tiết
Phân tích các kịch bản định tính để nâng cấp chuỗi giá trị gỗ: Nghiên cứu tại tỉnh Thừa Thiên Huế, miền Trung Việt Nam

Phân tích các kịch bản định tính để nâng cấp chuỗi giá trị gỗ: Nghiên cứu tại tỉnh Thừa Thiên Huế, miền Trung Việt Nam

Quá trình chuyển đổi rừng ở Việt Nam đang hướng tới nâng cao chất lượng rừng trồng, hiệu quả kinh tế và dịch vụ môi trường, song vẫn đối mặt nhiều yếu ...

Chi tiết
Áp dụng các biện pháp canh tác nông nghiệp bảo tồn và tác động của chúng đến năng suất và thu nhập: Nghiên cứu từ hộ nông dân trồng ngô tại vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Áp dụng các biện pháp canh tác nông nghiệp bảo tồn và tác động của chúng đến năng suất và thu nhập: Nghiên cứu từ hộ nông dân trồng ngô tại vùng núi Tây Bắc Việt Nam

Sinh kế của nông hộ và tính bền vững môi trường là hai vấn đề trọng tâm của nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh đất đai thoái hóa do canh tác thâm canh ...

Chi tiết