Quá trình chuyển đổi rừng ở Việt Nam đang hướng tới nâng cao chất lượng rừng trồng, hiệu quả kinh tế và dịch vụ môi trường, song vẫn đối mặt nhiều yếu tố bất định. Phân tích kịch bản chuỗi giá trị gỗ Keo tại Thừa Thiên Huế trong nghiên cứu “Qualitative scenarios analysis for upgrading timber value chains: A case study in Thua Thien Hue province, central Vietnam” công bố trên tạp chí Trees, Forests and People No. 21 (2025) của La Thị Thắm - giảng viên Trường Đại học Kinh tế cho thấy mô hình đồng quản lý theo hướng “Chuyển đổi Chậm” là con đường phát triển khả thi và bền vững hơn trong giai đoạn hiện nay.
Quá trình chuyển đổi rừng ở Việt Nam đang chuyển sang bước tiếp theo: cải thiện đáng kể chất lượng rừng trồng và nâng cao hiệu quả kinh tế, lợi ích xã hội và dịch vụ môi trường. Để đạt được những mục tiêu này, Chính phủ Việt Nam đã ban hành một số chính sách, như thúc đẩy ngành chế biến đồ gỗ nội địa và phát triển chuỗi giá trị gỗ. Tuy nhiên, sự phát triển hơn nữa của ngành gỗ vẫn chưa chắc chắn dưới tác động của các yếu tố ảnh hưởng.
Nghiên cứu này trình bày những phát hiện từ phân tích kịch bản định tính được thực hiện để xác định và đánh giá các con đường khác nhau của chuỗi giá trị gỗ Keo tại tỉnh Thừa Thiên Huế, nơi loài cây này đã được trồng hơn 20 năm. Phân tích điều kiện bối cảnh và 15 cuộc phỏng vấn người cung cấp thông tin chính đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định ba kịch bản phát triển dựa trên mức độ can thiệp chuyển đổi rừng và phản ứng của các tác nhân chính trong chuỗi giá trị. Các tiêu chí chính để đánh giá chuỗi giá trị được xác định theo ba trụ cột của phát triển bền vững, bao gồm tiềm năng kinh tế, lợi ích xã hội và cải thiện môi trường. Kết quả nghiên cứu cho thấy triển vọng thực hiện hiệu quả của mô hình Chuyển đổi Nhanh trong tình hình hiện tại là thấp. Thay vào đó, một kịch bản Chuyển đổi Chậm với mô hình đồng quản lý đóng vai trò như một con đường phát triển phù hợp.
Đóng góp mới của bài báo và hàm ý chính sách
Nghiên cứu này tích hợp phương pháp tiếp cận kịch bản định tính vào khung phân tích chuỗi giá trị để xác định các can thiệp chuyển đổi rừng và phản ứng tương ứng của các tác nhân chính trong chuỗi giá trị. Ba kịch bản khác nhau cho chuỗi giá trị gỗ tại miền Trung Việt Nam được xác định, bao gồm mô hình Kinh doanh Như Thường lệ (BAU), Chuyển đổi Nhanh và Chuyển đổi Chậm. Phân tích kịch bản cho phép xác định các tác động kinh tế, xã hội và môi trường liên quan đến từng kịch bản, từ đó cung cấp thông tin chi tiết về mức độ và hiệu quả triển khai của chúng. Điều này dẫn đến kết luận rằng việc định hình tương lai của chuỗi giá trị gỗ đòi hỏi một góc nhìn hệ thống, cho phép các bên liên quan trong chuỗi giá trị đưa ra quyết định sáng suốt hơn. Kết quả nghiên cứu đóng góp các thông tin, bổ sung cho việc xây dựng chính sách rừng trồng tại Việt Nam.
Khái quát hóa các kịch bản phát triển chuỗi giá trị gỗ
Với nguồn nguyên liệu thô độc đáo và thương mại quốc tế ngày càng gia tăng gần đây, ngành lâm nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong phát triển bền vững. Để đáp ứng nhu cầu lâm sản trong tương lai, vai trò của rừng trồng sẽ không chỉ giới hạn ở việc cung cấp gỗ cho thị trường toàn cầu. Thay vào đó, các diễn đàn về quản lý rừng địa phương ngày càng tập trung vào việc cải thiện kết quả bảo tồn và tôn trọng nhu cầu cũng như sinh kế của cộng đồng địa phương. Sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn ngày càng được coi là mục tiêu chiến lược của các ngành công nghiệp dựa vào rừng. Với nguồn tài nguyên gỗ hạn chế, việc chuyển đổi từ sản xuất hàng loạt các sản phẩm gỗ giá trị thấp sang sản xuất có chọn lọc các sản phẩm gỗ có giá trị cao hơn sẽ góp phần nâng cao những đóng góp cho nền kinh tế địa phương và quốc gia từ sinh khối rừng được quản lý bền vững.
Các cuộc thảo luận nhóm trong quá trình thực địa và phỏng vấn người cung cấp thông tin chính tạo cơ hội để khái quát hóa và đánh giá các kịch bản phát triển chuỗi giá trị gỗ dựa trên kiến thức và kinh nghiệm địa phương. Về mặt kinh tế, hệ thống quản lý rừng hiện tại đại diện cho một khoản đầu tư thu hồi vốn nhanh của các nhà sản xuất gỗ quy mô nhỏ. Tuy nhiên, nguồn thu nhập từ gỗ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn theo mô hình BAU, ngụ ý mức độ bất ổn sinh kế cao đối với các hộ dân trồng rừng về lâu dài. Mặc dù chuỗi giá trị dăm gỗ mang lại lợi nhuận tài chính cho các bên tham gia chuỗi, nhưng đóng góp của nó cho nền kinh tế quốc gia nói chung còn hạn chế. Ngược lại, sản xuất đồ nội thất, đặc biệt là chuỗi giá trị đồ nội thất được chứng nhận FSC, tạo ra giá trị gia tăng cao hơn. Tuy nhiên, phần lớn thặng dư này hiện đang được các doanh nghiệp chế biến nắm giữ, trong khi người trồng rừng bị mắc kẹt trong quy trình thực hiện phức tạp và chi phí cơ hội đáng kể của hàng tồn kho. Ngoài những rủi ro đã đề cập ở trên, hầu hết các hộ trồng rừng quy mô nhỏ đều thiếu kiến thức về quản lý sản xuất gỗ xẻ. Do đó, khả năng áp dụng những thay đổi “nhanh chóng” theo mô hình Chuyển đổi Nhanh của họ còn hạn chế. Bên cạnh đó, thông tin về năng lực và thiện chí của các đơn vị chế biến gỗ trong việc tham gia vào mô hình Chuyển đổi Nhanh còn thiếu hụt.
Xét về mặt xã hội, sản xuất và xuất khẩu đồ nội thất cho thấy nguồn cung lao động cao hơn sản xuất dăm gỗ. Tuy nhiên, theo mô hình Chuyển đổi Nhanh, tình trạng tập trung đất rừng có thể gia tăng do các hộ nghèo không đủ khả năng chi trả cho các chế độ trồng rừng gỗ được chứng nhận FSC. Điều này sẽ làm trầm trọng thêm vấn đề “chiếm đoạt” tài nguyên của nhóm người có điều kiện kinh tế tốt (elite capture problem) trong và giữa các cộng đồng, đồng thời làm giảm khả năng phục hồi xã hội. Trong khi đó, mô hình Chuyển đổi Chậm mang lại cho người sản xuất gỗ một cách tiếp cận linh hoạt hơn để cải thiện sinh kế một cách bền vững.
Về mặt môi trường, mô hình Chuyển đổi Nhanh với việc thực thi pháp luật nghiêm ngặt về phát triển bền vững, về mặt lý thuyết, cho thấy tiềm năng cao nhất về cải thiện đa dạng sinh học và độ phì nhiêu của đất. Tuy nhiên, triển vọng thực hiện hiệu quả kịch bản này là thấp. Về mặt quản lý, nguyên nhân chủ yếu liên quan đến việc thiếu hụt nguồn lực tài chính và năng lực quản lý. Về mặt địa phương, việc ban hành luật bảo vệ môi trường nghiêm ngặt mà không xem xét kỹ lưỡng các điều kiện địa phương sẽ không hợp lý. Tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các quy định này sẽ ở mức thấp. Kịch bản Chuyển đổi Chậm là một giải pháp thay thế để khắc phục những vấn đề này. Được đặc trưng bởi mô hình đồng quản lý, con đường chuyển đổi này có thể tăng cường sự tham gia của cộng đồng địa phương vào các chương trình bảo vệ môi trường.
Hàm ý đối với các doanh nghiệp và hộ gia đình trồng rừng quy mô nhỏ
Nhiều hộ trồng rừng gặp bất lợi về tài chính và thường xuyên phải gánh chịu những sự kiện bất ngờ được gọi là “cú sốc thu nhập”, chẳng hạn như người thân ốm đau, mất gia súc và thiên tai. Mặc dù các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ nội thất đóng góp cơ bản vào sự phát triển kinh tế, nhưng sản xuất gỗ xẻ đòi hỏi cải thiện kỹ thuật lâm sinh, khả năng chịu rủi ro cao hơn và thời gian hoàn vốn đầu tư dài hơn. Do hiện tại chưa có cơ chế bảo hiểm cho rừng trồng, các nhà sản xuất gỗ quy mô nhỏ phải chịu trách nhiệm cho tất cả những bất ổn này. Do đó, để tăng lợi ích cho các hộ dân tham gia trồng rừng gỗ xẻ, cần có một số thay đổi trong quản lý rừng trồng, như đào tạo khuyến nông, trợ cấp cây giống và/hoặc phân bón và hỗ trợ tài chính.
Các đơn vị chế biến gỗ, nhìn chung, phần lớn đều có quy mô siêu nhỏ và nhỏ với trình độ công nghệ và quản lý tương đối thấp. Hoạt động kinh doanh và yêu cầu về nguyên liệu gỗ của họ phụ thuộc rất cao vào đơn đặt hàng của một số khách hàng lâu năm. Theo mô hình Chuyển đổi Nhanh, mặc dù chính phủ cung cấp tài trợ ban đầu, doanh nghiệp có thể né tránh đầu tư. Do đó, bất kỳ thay đổi nào liên quan đến nguồn cung gỗ nên được kết hợp với một hệ thống thông tin thị trường phù hợp, chẳng hạn như nhu cầu thị trường và năng lực của các đơn vị chế biến.
Điều cần thiết là phải thúc đẩy một nền tảng thảo luận giữa cộng đồng, doanh nghiệp chế biến và các cơ quan chính quyền để đạt được mục tiêu giảm nghèo hiệu quả và cải thiện công bằng xã hội trong tương lai. Hơn nữa, một số người cung cấp thông tin chính nhấn mạnh rằng chiến lược sản xuất gỗ xẻ nên được hướng tới một cách thận trọng trong tình hình hiện tại. Cần cân nhắc một cách toàn diện về việc cải thiện năng suất sản xuất gỗ, cả về số lượng và chất lượng gỗ xẻ. Nếu các đơn vị chế biến cần gỗ xẻ có đường kính lớn được khai thác từ rừng trồng dài ngày, họ có thể tạo một thỏa thuận cùng có lợi với người trồng rừng, đại diện cho các nhà cung cấp nguyên liệu thô mục tiêu của họ.
Hàm ý chính sách
Nhiều bất ổn ảnh hưởng đến cơ cấu và hiệu suất của các doanh nghiệp gỗ chỉ có thể được giải quyết bằng các biện pháp chính trị ở một mức độ nhất định. Điều thiết yếu là thiết lập một khuôn khổ chính sách đáng tin cậy, cung cấp định hướng cho quá trình chuyển đổi sang sử dụng các sản phẩm từ gỗ có giá trị cao hơn.
Tại Việt Nam, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) - kể từ tháng 2 năm 2025, đã sáp nhập với Bộ Tài nguyên và Môi trường thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường - chịu trách nhiệm chính về quy hoạch rừng và giám sát các thay đổi liên quan đến tài nguyên rừng. Các nhiệm vụ cụ thể được giao cho các cơ quan trực thuộc. Tuy nhiên, vai trò và trách nhiệm của các cơ quan quản lý rừng ở các cấp hành chính khác nhau vẫn chưa được xác định đầy đủ. Điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải thiết lập một cơ chế kiểm toán mạnh mẽ để đánh giá một cách có hệ thống các kết quả quản lý rừng.
Để nâng cao năng lực đổi mới của doanh nghiệp và hỗ trợ nâng cấp chuỗi giá trị, cần có một cơ chế quản trị chuỗi mang tính chiến lược hơn, dung hòa các lợi ích vốn bị phân mảnh giữa các tác nhân trong chuỗi và thúc đẩy sự hợp tác của họ. Thông tin thu được từ các nhóm hộ trồng rừng có chứng chỉ hiện có có thể định hướng cho các nỗ lực tăng cường hợp tác giữa hộ trồng rừng và doanh nghiệp chế biến gỗ. Tuy nhiên, năng lực hoạt động của các hợp tác xã tiểu nông hiện tại và các thỏa thuận hợp đồng giữa đơn vị chế biến và nông dân vẫn cần được cải thiện đáng kể.
Hơn nữa, điều quan trọng là tạo điều kiện thuận lợi cho đối thoại giữa các tác nhân nhà nước và phi nhà nước trong chuỗi giá trị gỗ bằng cách khôi phục các nền tảng liên ngành hiện có và thiết lập các nền tảng mới. Các nền tảng này nên được thiết kế để giảm thiểu các rào cản hành chính và hợp lý hóa quy trình xác định vấn đề, đàm phán lợi ích và phát triển giải pháp. Các công cụ mang tính tham gia, chẳng hạn như Nền tảng Đổi mới Tham gia (PIP), có thể được sử dụng để xây dựng niềm tin và thúc đẩy sự hợp tác giữa các bên liên quan, từ đó tăng cường trao đổi kiến thức và thúc đẩy quá trình học tập xã hội.
Ngoài ra, các nhà hoạch định chính sách nên xác định các mục tiêu phát triển chính phù hợp với từng giai đoạn, khu vực địa lý và nhóm tác nhân cụ thể trong chuỗi giá trị gỗ. Một chiến lược tiềm năng là áp dụng phương pháp tiếp cận linh hoạt và cục bộ để quản lý gỗ keo lai và rộng hơn là chuỗi giá trị từ rừng. Ví dụ, các đồn điền có chu kỳ luân canh dài hơn có thể được tập trung ở những khu vực có cơ sở hạ tầng phát triển và có sẵn các cơ sở chế biến gỗ.
>>> THÔNG TIN BÀI BÁO
La Thi Tham, 2025. Qualitative scenarios analysis for upgrading timber value chains: A case study in Thua Thien Hue province, central Vietnam, Trees, Forests and People, 21, 100952. https://doi.org/10.1016/j.tfp.2025.100952
>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
| .png) 
 | TS. La Thị Thắm hiện là giảng viên Bộ môn Kinh tế Truyền thông và Báo chí, Khoa Kinh tế Chính trị. TS. La Thị Thắm nhận bằng Cử nhân và Thạc sĩ chuyên ngành Tài chính ngân hàng tại Học viện Tài Chính. Năm 2021, với học bổng của Chính phủ Việt Nam, cô đã nhận bằng Tiến sĩ về Kinh tế môi trường tại Đại học Kỹ thuật Dresden, Dresden, CHLB Đức. Hướng nghiên cứu chính của TS. La Thị Thắm liên quan đến phát triển bền vững; kinh tế tuần hoàn; kinh tế tài nguyên và môi trường; chuỗi giá trị của các sản phẩm nông, lâm nghiệp; sinh kế và phát triển nông thôn. | 
 
 
                                                
                                                Nghiên cứu “The role of mindfulness in promoting purchase intention” của Nguyễn Thu Hà, Hoàng Đàm Lương Thúy và cộng sự công bố trên Spanish Journal of ...
Chi tiết 
                                                
                                                Bài nghiên cứu “Chief Financial Officer Overconfidence and Earnings Management” của Nguyễn Huy Tâm và cộng sự công bố trên tạp chí Accounting Forum (2023) ...
Chi tiết 
                                                
                                                Bài nghiên cứu “CEO Gender Perspectives in Climate and Environmental Governance: A Systematic Literature Review and Bibliometric Analysis” của Nguyễn Huy ...
Chi tiết 
                                                
                                                Nghiên cứu “Factors influencing residents’ willingness to pay for mangrove forest environmental services in Phu Long, Vietnam” của Lưu Quốc Đạt - giảng ...
Chi tiết 
                                                
                                                Nghiên cứu “Households’ willingness-to-pay for mangrove environmental services: Evidence from Phu Long, Northeast Vietnam” của Lưu Quốc Đạt - giảng viên ...
Chi tiết 
                                                
                                                Bài nghiên cứu “The impact of social responsibility on the competitive advantage of small and medium-sized enterprises in Hanoi, Vietnam” của Nguyễn Đình ...
Chi tiết 
                                                
                                                Nghiên cứu “The Impact of Innovation-Driven Digital Transformation on Export Performance of SMEs” của Đỗ Thị Thơ - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và ...
Chi tiết 
                                                
                                                Sinh kế của nông hộ và tính bền vững môi trường là hai vấn đề trọng tâm của nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh đất đai thoái hóa do canh tác thâm canh ...
Chi tiết 
                                                
                                                Trân trọng giới thiệu Danh mục bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế của cán bộ, giảng viên Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN năm 2025 (Tính đến tháng 9 ...
Chi tiết