BÀI BÁO QUỐC TẾ

Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định trồng rừng chu kỳ dài của các hộ gia đình địa bàn tỉnh Quảng Trị, Việt Nam bằng mô hình mạng Bayes

P. NCKH&HTPT tổng hợp 11:09 12/06/2025

Trước thách thức thiếu hụt gỗ nguyên liệu cho ngành chế biến gỗ và nội thất, bài báo “Analyzing determinants of long-rotation plantation decisions by local households in Quang Tri Province, Vietnam with Bayesian Networks" do PGS.TS. Lê Đình Hải và cộng sự công bố trên tạp chí Land Use Policy Vol. 138 thực hiện đã đưa ra phân tích sâu sắc về các yếu tố thúc đẩy hoặc cản trở việc trồng rừng luân canh dài ngày. Dựa trên khảo sát 315 hộ tại Quảng Trị và sử dụng mô hình mạng Bayesian kết hợp hồi quy logistic, nghiên cứu chỉ ra vai trò tích cực của việc tham gia dự án FSC, nguồn giống chất lượng và hiểu biết thị trường; đồng thời cảnh báo các rào cản như thiếu vốn và rủi ro bão lũ. Những phát hiện này gợi mở các chính sách cần thiết nhằm thúc đẩy trồng rừng gỗ lớn bền vững tại Việt Nam.

Việt Nam là một trong những quốc gia có ngành công nghiệp nội thất năng động nhất thế giới. Tuy nhiên, nguồn gỗ nguyên liệu trong nước đang gặp khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu của ngành nội thất đang bùng nổ cả về số lượng và chất lượng. Trồng rừng luân canh dài hạn được kỳ vọng sẽ là một giải pháp tiềm năng để cải thiện sinh kế địa phương và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng hồi quy logistic nhị phân để phân tích bốn nhóm yếu tố ảnh hưởng đến việc áp dụng trồng rừng luân canh dài ngày gỗ lớn, bao gồm: đặc điểm hộ gia đình, các yếu tố kinh tế xã hội, các yếu tố tự nhiên và kỹ thuật cũng như các yếu tố thể chế và chính sách sử dụng dữ liệu được thu thập từ 315 hộ gia đình tại các huyện Linh và Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Chúng tôi cũng đã phát triển mô hình Mạng Bayesian để xác định các yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến quyết định trồng rừng luân canh dài ngày gỗ lớn của các hộ gia đình trên địa bàn nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng sự tham gia vào các dự án chứng chỉ rừng bền vững (FSC), đảm bảo nguồn cây giống, hiểu biết về thị trường gỗ luân canh dài hạn và khoảng cách từ hộ gia đình đến địa điểm trồng rừng có ảnh hưởng tích cực đến quyết định trồng rừng luân canh dài ngày gỗ lớn của các hộ gia đình. Ngược lại, việc thiếu vốn trong năm thứ 4 đến năm thứ 5 và tỷ lệ ảnh hưởng của bão có ảnh hưởng tiêu cực đến quyết định trồng rừng luân canh dài ngày gỗ lớn các hộ gia đình. Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng các chính sách hỗ trợ giúp người trồng rừng tiếp cận tốt hơn với các dự án FSC, xây dựng hệ thống tín dụng lãi suất thấp và vật liệu và thiết bị trồng rừng chất lượng tốt hơn có thể khuyến khích các hộ gia đình địa phương áp dụng trồng rừng luân canh dài ngày gỗ lớn trong những năm tới.

 

Toàn văn bài báo công bố trên tạp chí Land Use Policy, 138, 107029.

Đóng góp mới của bài báo

Việt Nam hiện là một trong những quốc gia công nghiệp nội thất năng động và thành công nhất thế giới. Việt Nam là quốc gia xuất khẩu đồ nội thất lớn thứ hai ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và thứ năm trên toàn cầu, chiếm khoảng 7% thị trường toàn cầu. Ngành nội thất đã trở thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam và tạo việc làm cho nửa triệu lao động. Mặc dù đã được những thành tựu này, Việt Nam vẫn phải đối mặt với hai thách thức lớn: thiếu nguồn cung trong nước và sản phẩm gỗ chất lượng thấp. Năm 2017, Việt Nam tiêu thụ khoảng 32 triệu m3 gỗ nguyên liệu. Tuy nhiên, nguồn cung nguyên liệu trong nước chỉ giới hạn ở khoảng hai triệu m3. Vì thực tế này, các công ty Việt Nam chế biến gỗ và nội thất phụ thuộc rất nhiều vào hàng triệu mét khối nguyên liệu gỗ thô từ các quốc gia khác. Gỗ tròn, gỗ xẻ và tấm gỗ chiếm hơn 80% tổng lượng nhập khẩu gỗ và nguyên liệu ngoài gỗ của Việt Nam. Kể từ khi lệnh cấm khai thác gỗ rừng tự nhiên được ban hành ở Lào và Campuchia vào năm 2014, cùng với việc giá gỗ nguyên liệu từ Châu Phi tăng cao, việc tìm kiếm nguồn gỗ trở nên khó khăn hơn đối với các công ty Việt Nam. Kết quả là, kỳ vọng vào rừng trồng trong nước như một nguồn cung cấp gỗ đã tăng cao hơn bao giờ hết. Năm 2018, Việt Nam có khoảng 14,7 triệu ha rừng, trong đó rừng trồng chiếm 4,3 triệu ha, cung cấp khoảng 28 triệu mét khối gỗ nguyên liệu cho ngành chế biến gỗ. Tuy nhiên, chất lượng gỗ trong nước còn thấp; 80% gỗ rừng trồng trong nước được sử dụng làm dăm gỗ và ván sợi mật độ trung bình do có đường kính nhỏ. Điều này dẫn đến giảm giá trị gia tăng của sản phẩm sản xuất và ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm gỗ cuối cùng. Keo là loài được trồng nhiều nhất trong rừng sản xuất do năng suất cao và chu kỳ ngắn. Tuy nhiên, loài cây này được trồng chủ yếu trên đồi trọc, khiến gỗ trở nên giòn và dễ gãy. không phù hợp để xử lý giá trị cao. Hơn nữa, do quá trình sản xuất, rừng ở Việt Nam chủ yếu được giao cho các cá nhân và hộ gia đình nên diện tích rừng trồng thường phân tán và quy mô nhỏ. Mỗi gia đình khai thác rừng trồng vào các thời điểm khác nhau và luân kỳ ngắn hơn so với khuyến nghị, khiến giá trị gỗ trở nên thấp hơn. Cho đến nay, số lượng và chất lượng gỗ Việt Nam cũng chưa đáp ứng được kỳ vọng đối với các sản phẩm gỗ nội ngoại thất trong nước.

Để thúc đẩy phát triển bền vững, Việt Nam đã thực hiện nhiều sáng kiến nhằm mở rộng độ bao phủ xanh và khuyến khích các chủ rừng được giao mở rộng diện tích của họ để sản xuất gỗ có chu kỳ dài với mục tiêu trồng rừng gỗ lớn. Bộ NN & PTNT đã có Quyết định 1565 của năm 2013, và Nghị định 774 năm 2014, và Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cũng đã có Quyết định 38 năm 2016 nhằm thúc đẩy trồng rừng luân canh dài hạn, chuyển rừng từ trồng luân canh ngắn ngày gỗ nhỏ sang trồng luân canh dài ngày gỗ lớn và thực hành phát triển bền vững. Theo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, từ năm 2016, dự án thí điểm tại 10 tỉnh phía Bắc đã chuyển đổi rừng trồng luân canh ngắn ngày gỗ nhỏ thành rừng luân canh dài gỗ lớn với sự tham gia của 540 hộ dân. Sau năm thứ ba thực hiện, lợi ích của việc trồng rừng luân canh dài ngày gỗ lớn đã được tất cả các bên tham gia công nhận, dẫn đến cam kết thực hiện mô hình trồng rừng này. Tuy nhiên, cho đến nay, tiến độ chuyển đổi từ trồng luân canh ngắn ngày gỗ nhỏ sang trồng luân canh dài gỗ lớn vẫn cần được thúc đẩy ở một số địa phương. Các hộ sản xuất nhỏ lo ngại về chi phí và rủi ro khi tuổi luân canh tăng lên, chẳng hạn như bão, sâu bệnh và sự bất ổn của thị trường. Hơn nữa, vì diện tích đất rừng được giao còn nhỏ và do hạn chế về năng lực kỹ thuật, các hộ trồng rừng cũng gặp khó khăn về chi phí vận hành và giao dịch cao. Do đó, các hộ trồng rừng thường chọn rừng trồng luân canh ngắn ngày gỗ nhỏ hơn là rừng trồng luân canh dài ngày gỗ lớn. Các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định trồng rừng của các hộ gia đình, nhưng ít nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng trồng rừng luân canh dài ngày gỗ lớn. Nghiên cứu này nhằm mục đích lấp đầy khoảng trống này bằng cách áp dụng mô hình hồi qui logit nhị phân và mô hình mạng Bayesian Belief Network cho việc xác định các yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định đầu tư vào trồng rừng luân canh dài ngày gỗ lớn của các hộ gia đình ở tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo có giá trị cho Bộ Nông nghiệp và PTNT trong việc hoạch định chính sách thúc đẩy trồng rừng gỗ lớn với luân kỳ kinh doanh dài, nhằm đáp ứng được nhu cầu gỗ nguyên liệu trong ngành chế biến gỗ và nộ thất phục vụ cho xuất khẩu sản phẩm gỗ và nội thất.

 

>>> THÔNG TIN BÀI BÁO

Dinh Le, H., Thi Mai Anh, T., Thi Hai Hien, V., Thi Van, L., & Thi Mai, N. (2024). Analyzing determinants of long-rotation plantation decisions by local households in Quang Tri Province, Vietnam with Bayesian Networks. Land Use Policy, 138, 107029. https://www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0264837723004957

>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

PGS.TS. Lê Đình Hải hiện là Phó Trưởng Khoa Kinh tế Phát triển, Trường ĐHKT - ĐHQGHN, tốt nghiệp đại học tại Trường Đại học Lâm nghiệp với bằng kỹ sư lâm nghiệp chuyên ngành Quản lý kinh tế năm 1996, tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Quản lý môi trường và Phát triển tại Đại học Quốc gia Australia (ANU) năm 2006; tốt nghiệp tiến sĩ Kinh tế Tài nguyên và Môi trường tại Đại học Tổng hợp Queensland (UQ) - Australia năm 2013.

PGS.TS. Lê Đình Hải đã công bố trên 50 bài báo khoa học trên các tạp chí uy tín trong nước và quốc tế và là giảng viên có gần 30 năm kinh nghiệm trong đào tạo và nghiên cứu về: Kinh tế và chính sách nông lâm nghiệp và tài nguyên môi trường, Quản lý kinh tế, Phát triển sinh kế bền vững, Giảm nghèo đa chiều và bền vững,… Thế mạnh của PGS.TS. Lê Đinh Hải là ứng dụng các phần mềm thống kê chuyên ngành như STATA, SPSS, NETICA cho việc phân tích định lượng, đặc biệt là ứng dụng mô hình hồi quy tuyến tính, mô hình Logit nhị phân (Binary Logistic Regression), mô hình phân tích nhân tố khám phá (EFA) và mô hình cấu trúc SEM; mô hình hóa như Mô hình mạng Baysian Network (BNs). Các mô hình định lượng này đã được ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, tư vấn chính sách và công bố nhiều bài báo khoa học trong nước và quốc tế. Ngoài ra, PGS.TS. Lê Đinh Hải đã tham gia hướng dẫn chính nhiều nhóm sinh viên nghiên cứu khoa học đạt giải các cấp như Giải thưởng UREKA, Kinh tế lượng ứng dụng toàn quốc.

Tác động của tâm lý nhà đầu tư đến rủi ro sụp đổ trên thị trường chứng khoán khu vực Châu Á – Thái Bình Dương: Vai trò của các yếu tố bất định có quan trọng không?

Tác động của tâm lý nhà đầu tư đến rủi ro sụp đổ trên thị trường chứng khoán khu vực Châu Á – Thái Bình Dương: Vai trò của các yếu tố bất định có quan trọng không?

Nghiên cứu “An insight into the implications of investor sentiment on crash risk in Asia–Pacific stock markets: are uncertainty factors important?” của ...

Chi tiết
Các yếu tố quyết định biến động giá căn hộ tại Việt Nam: So sánh giữa Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh

Các yếu tố quyết định biến động giá căn hộ tại Việt Nam: So sánh giữa Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh

Bài báo “Determinants of apartment price volatility in Vietnam: a comparison between Hanoi and Ho Chi Minh City” của PGS.TS. Nguyễn Thị Nhung - giảng viên ...

Chi tiết
Đánh giá hiện trạng và định hướng khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước ngầm tại các khu vực khan hiếm nước ở Nam Trung Bộ Việt Nam

Đánh giá hiện trạng và định hướng khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước ngầm tại các khu vực khan hiếm nước ở Nam Trung Bộ Việt Nam

Bài báo “Assessment of Current Situation and Orientations for Exploitation, Utilization, and Protection of Groundwater Resources in Water–Scarce Areas ...

Chi tiết
Bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm của các quốc gia châu Á và bài học cho Việt Nam

Bẫy thu nhập trung bình: Kinh nghiệm của các quốc gia châu Á và bài học cho Việt Nam

Bài báo “Middle-income traps: Experiences of Asian countries and lessons for Vietnam” của TS. Hoàng Xuân Vinh - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và nhóm ...

Chi tiết
Cách chinh phục ý định tiêu dùng trên nền tảng thương mại điện tử tại đô thị có chi phí cao: Nghiên cứu trường hợp Hà Nội

Cách chinh phục ý định tiêu dùng trên nền tảng thương mại điện tử tại đô thị có chi phí cao: Nghiên cứu trường hợp Hà Nội

Bài báo “How to Win Consumer Intention in E-Commerce Platform in a High-Cost Urban City: A Case Study of Hanoi” của TS. Trần Thị Mai Thành - giảng viên ...

Chi tiết
Tác động của chất lượng thể chế cấp tỉnh đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các tỉnh Đồng bằng sông Hồng

Tác động của chất lượng thể chế cấp tỉnh đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các tỉnh Đồng bằng sông Hồng

Nghiên cứu "The impact of provincial‑level institutional quality on attracting foreign direct investment in the Red River Delta provinces" của TS. Trần ...

Chi tiết
Tăng cường thuận lợi hóa thương mại nhằm thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa chế tạo tại Việt Nam: Nghiên cứu điển hình một nền kinh tế chuyển đổi

Tăng cường thuận lợi hóa thương mại nhằm thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa chế tạo tại Việt Nam: Nghiên cứu điển hình một nền kinh tế chuyển đổi

Nghiên cứu "Enhancing Trade Facilitation to Boost Manufactured Goods Trade in Vietnam: A Case Study of a Transition Economy" của nhóm tác giả Nguyễn Anh ...

Chi tiết
Năng lực cạnh tranh của tập đoàn dệt may Việt Nam

Năng lực cạnh tranh của tập đoàn dệt may Việt Nam

Ngành dệt may là một trong những ngành chủ đạo của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Ở Việt Nam, ngành dệt may có vai trò quan trọng như góp phần đảm ...

Chi tiết
Thu hẹp khoảng cách kết nối với thiên nhiên để thúc đẩy văn hóa môi trường: Nghiên cứu việc sử dụng và đóng góp của cư dân đô thị đối với các công viên ở Việt Nam

Thu hẹp khoảng cách kết nối với thiên nhiên để thúc đẩy văn hóa môi trường: Nghiên cứu việc sử dụng và đóng góp của cư dân đô thị đối với các công viên ở Việt Nam

Thiếu hụt tài chính là một trong những nguyên nhân chính khiến nhiều dự án bảo vệ môi trường kém hiệu quả hoặc thất bại. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước ...

Chi tiết