Nhà Khoa học UEB khuyến nghị về chính sách phát triển công nghiệp chế biến nông sản cho Việt Nam

TS. Nguyễn Thuỳ Linh - Khoa Kinh tế chính trị 11:53 20/09/2024

Đề tài: Kinh nghiệm quốc tế về chính sách phát triển công nghiệp chế biến nông sản và hàm ý cho Việt Nam. Mã số: KT.23.38. Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Thị Thuỳ Linh

Công nghiệp chế biến nông sản là một trong những ngành quan trọng nhất của nền kinh tế toàn cầu, do được coi như là giải pháp quan trọng để đảm bảo an ninh lương thực thực phẩm, nâng cao giá trị, chất lượng, tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm nông nghiệp, làm chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu sản xuất nông nghiệp, góp phần pháp triển kinh tế khu vực nông thôn và thúc đẩy ngành nông nghiệp hội nhập kinh tế toàn cầu trong bối cảnh ngày nay. Tuy nhiên, ngành công nghiệp chế biến nông sản phải đối mặt với rất nhiều thách thức: thay đổi lối sống sạch, yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm chế biến, thay đổi mô hình tiêu thụ thực phẩm toàn cầu, phản ứng của xã hội đối với hệ thống thực phẩm do các vấn đề môi trường, xã hội và kinh tế, rủi ro toàn cầu làm cho các hệ thống kinh tế xã hội dễ bị tổn thương hơn trước những bất ổn và biến động khác nhau Nhận thấy các quốc gia đã chú trọng đến chính sách phát triển công nghiệp chế biến nông sản để giải quyết các thách thức cũng như thúc đẩy phát triển để công nghiệp chế biến nông sản thực hiện được đúng vai trò của mình. Trước những khó khăn như vậy, Việt Nam đã có những thay đổi trong nhận thức và hoạt động quản lý, ban hành và thực thi chính sách phát triển công nghiệp chế biến chế tạo. Tuy nhiên có thể thấy một số điểm nghẽn vẫn còn tồn tại. Nên nhóm thực hiện đề tài đã tập trung nghiên cứu, chỉ ra các điểm nghẽn trong chính sách phát triển công nghiệp chế biến nông sản của Việt Nam và đồng thời, nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia thành công để đưa ra hàm ý chính sách cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam.

  1. Các điểm nghẽn hiện tại của vấn đề nghiên cứu là gì? Đâu là những điểm đang bất cập nhất chúng ta cần tập trung đánh giá?

Thứ nhất, một số chính sách tính khả thi chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Một số chính sách quy định Nhà nước hỗ trợ vốn, nhưng trong bối cảnh ngân sách khó khăn nên nguồn kinh phí ngân sách bảo đảm thực hiện các chính sách này còn thấp và chậm, gây ra tình trạng vốn bố trí cho dự án sau mỗi năm lại giảm đi.  Đồng thời, doanh nghiệp chế biến nông sản trong nước không được giao đất có thu tiền sử dụng đất nông nghiệp mà chỉ được đầu tư để sản xuất nông nghiệp, và hộ nhận chuyển nhượng đất lúa phải là hộ nông nghiệp.

Đặc biệt, tính hiệu quả, khả thi, hiệu lực và đáp ứng của chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế biến nông sản chỉ được đánh giá khoảng 3 điểm. Nghị định 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 của Chính phủ về Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn qua hơn 4 năm, cả nước mới chỉ có 64 dự án tại 23 địa phương nhận được hỗ trợ từ nghị định; tính khả thi của Nghị định thấp. 

Lí giải cho thực trạng này, nhiều doanh nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam cho rằng chính sách tập trung, tích tụ đất nông nghiệp về mức thuế, phí liên quan đến chuyển nhượng đất nông nghiệp vẫn bị áp mức như các loại bất động sản khác. Tích tụ đất đai, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung đang là điểm nghẽn lớn nhất trong thu hút đầu tư doanh nghiệp vào sản xuất và chế biến. Chuyển đổi linh hoạt theo Nghị định 35/2015/NĐ-CP nhằm tích tụ đất đai như: cho thuê đất; chuyển nhượng quyền sử dụng đất; góp vốn bằng đất; chính quyền xã thuê lại đất của những hộ không có nhu cầu để cho doanh nghiệp thuê lại... song kết quả còn rất hạn chế. Nông dân vẫn có tâm lý lo mất đất khi tham gia vào HTX hoặc liên kết sản xuất lớn với doanh nghiệp. 

Về tổng thể, chính sách phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp chế biến, trong đó có chế biến nông sản chưa đạt được mức kỳ vọng và mục tiêu đưa ra. Các chính sách phù hợp trong xu hướng phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam nhưng còn chậm trễ, chưa kịp thời dẫn đến hiệu quả thấp. Bên cạnh đó, còn chưa được công khai, phổ biến rộng rãi. Điều này dẫn đến chương trình đào tạo chuyên môn, kỹ năng, tay nghề chế biến nông sản tại các tổ chức giáo dục chưa được chú trọng đúng mức. 

Thứ hai, nhiều quy định chưa phù hợp với điều kiện thực tế như điều kiện để được hưởng thụ chính sách. Theo quy định, để được hưởng ưu đãi, hỗ trợ, một trong các điều kiện là sản phẩm chế biến phải tăng giá trị 2 lần so với giá trị nguyên liệu thô ban đầu; quy định sử dụng tối thiểu 60% nguyên liệu và 30% lao động địa phương. Chính sách về thuế, phí chưa phù hợp, đặc biệt đối vẫn còn thuế nhập khẩu công nghệ ứng dụng cho nông nghiệp và chế biến nông sản. 

Hiện nay vẫn còn nhiều rào cản về chính sách kìm hãm sự phát triển của lĩnh vực này. Trong đó, theo đánh giá của doanh nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam, chính sách thu hút đầu tư có tính kịp thời và tính công khai thấp, trong khi đó chính sách liên quan đến khoa  học công nghệ có tính đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và tính hiệu quả kém, còn chính sách liên quan đến nguồn nhân lực có tính phù hợp thấp, chậm trễ so với nhu cầu của thị trường chưa được công khai, phổ biến rộng rãi khi chỉ đạt 4 điểm.

Chính sách tín dụng còn rườm rà và gây khó khăn cho các đối tượng không có tài sản đảm bảo. Theo số liệu báo cáo, hiện nay chỉ có 35 HTX được vay gần 70 tỷ đồng vốn đầu tư từ ngân hàng thương mại mà không có tài sản đảm bảo, còn không ít doanh nghiệp, HTX chế biến nông sản muốn vay vốn nhưng không vay được, hoặc phải thế chấp bằng sổ đỏ của gia đình mình nên chưa đảm bảo nguồn vốn cho HTX hoạt động. Đồng thời chính sách bảo hiểm nông nghiệp còn nhiều bất cập như được tham gia, thanh toán bảo hiểm, hộ nông dân hay chủ trang trại phải thoả mãn nhiều điều kiện về quy mô sản xuất, mức độ thiệt hại,…

Bảng 1: Đánh giá của doanh nghiệp về một số chính sách phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam

Chỉ tiêu

Nhóm chính sách

Tạo lập môi trường

Thu hút đầu tư

Khoa học công nghệ

Nguồn nhân lực

Khuyến khích xuất khẩu

Chính sách thanh tra, kiểm tra và xử lý các vấn đề phát sinh

Tính phù hợp

4,8

4,5

4,6

4,4

4,7

4,2

Tính kịp thời

4,2

4

4,1

4

4,3

4

Tính đáp ứng

4,4

3,8

4

4,2

4,1

4,5

Tính công khai

4,3

4

4,2

4

4,5

4,6

Tính hiệu quả

4

3

4

4,1

4,5

4,1

Tính hiệu lực

4,4

3,3

3,9

4,2

4,3

4,6

  1. Nguồn: Tông hợp của tác giả

Thứ ba, tính hiệu lực và hiệu quả của một số chính sách còn thấp. Hiệu lực và hiệu quả của chính sách liên quan đến khoa học công nghệ trong chế biến nông sản được đánh giá thấp.  Về thực hiện các Chương trình Khoa học và Công nghệ quốc gia: Đến nay 03 Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia đã thu hút được hơn 150 đơn vị tham gia thực hiện, trong đó gần 60% là doanh nghiệp. Riêng đối với lĩnh vực chế biến, bảo quản nông lâm thủy sản và cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp thì số lượng các nhiệm vụ không nhiều như: Chiết tách tinh dầu dừa VCO bằng phương pháp không gia nhiệt; chế biến phụ phẩm mỡ các tra thành dầu ăn; hoàn thiện công nghệ sơ chế và chế biến, sản xuất đa dạng hóa sản phẩm từ cà phê Việt Nam; chế tạo bao gói khí quyển biến đổi (MAP) phục vụ bảo quản nông sản, thực phẩm... Như vậy so với nhu cầu của cả lĩnh vực chế biến nông lâm thủy sản là quá ít so với nhu cầu, ngoài ra việc triển khai rất phức tạp do quá nhiều khâu thủ tục và đơn vị quản lý nên tác động của các Chương trình KH và CN quốc gia là không lớn. 

Thứ tư, thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, gây khó khăn cho việc thực thi chính sách, như thủ tục thẩm định, phê duyệt các chương trình, dự án; thủ tục cấp phát, chi tiêu tài chính... Doanh nghiệp phải thực hiện khoảng 16 bước với khoảng 40 văn bản liên quan để triển khai dự án đầu tư và nhận hỗ trợ, nhất là thủ tục hành chính về xây dựng, đất đai, môi trường… còn phức tạp. Chính sách tín dụng còn rườm rà và gây khó khăn cho các đối tượng không có tài sản đảm bảo. Bên cạnh đó, cơ chế quản lý và phối hợp điều hành của các cơ quan quản lý nhà nước chưa đồng bộ. Việc cấp phép đầu tư các cơ sở chế biến tại các địa phương không theo quy hoạch chung, dẫn đến mất cân đối giữa sản xuất nguyên liệu và chế biến, làm giảm năng lực cạnh tranh ngay từ khâu sản xuất. 

Thứ năm, công tác đánh giá hiệu qủa của các chính sách đã ban hành, tổ chức thực thi chưa được triển khai kịp thời và còn mang tính hình thức. Hiện nay phần lớn, công tác đánh giá hiệu quả của chính sách được thực hiện bởi các nhà khoa học, nghiên cứu chứ các cơ quan quản lý Nhà nước chưa chú trọng đến công tác này đúng mức.

Hình 1: Toạ đàm thảo luận về chính sách chế biến nông sản ở Việt Nam

  1. Kinh nghiệm ở nước ngoài giải quyết các vấn đề đó thế nào (cần quy hoạch các cách xử lý)? 

Một là, tạo lập môi trường pháp lý minh bạch, rõ ràng, nhanh gọn: một số quốc gia đã có những điều chỉnh kịp thời phù hợp với thực tiễn công nghiệp chế biến nông sản trong nước, với các đạo luật mới và thông lệ quốc tế. Đặc biệt trong những khía cạnh: (1) kiểm soát dịch bệnh và phát huy lợi thế của từng vùng để đảm bảo nguyên liệu đầu vào; (2) kiểm soát chặt chẽ việc xử lý và sử dụng chất thải để bảo vệ môi trường; (3) quy định về chất lượng thành phẩm chế biến từ nông sản để hướng tới xuất khẩu.

Hai là, tạo lập môi trường khuyến khích đổi mới sáng tạo: trên cơ sở tái cơ cấu mạnh mẽ  ngành công nghiệp chế biến nông sản và khai thác triệt để thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ 4; thực hiện số hóa, công nghệ hóa phương thức sản xuất, kinh doanh, giảm chi phí và tăng năng suất, chất lượng lao động trong sản xuất công nghiệp; tăng khả năng tiếp cận thông tin, dữ liệu; kết nối, hợp tác để tăng cơ hội kinh doanh mới (dựa trên nền tảng công nghệ số như thương mại điện tử, tài chính số...), tăng khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực, tham gia hệ sinh thái số. Tận dụng tối đa lợi thế, khai thác triệt để lợi thế thương mại để phát triển nhanh, chuyên sâu một số ngành công nghiệp chế biến nền tảng, chiến lược, có lợi thế cạnh tranh.

Ba là, thực hiện tốt công tác quy hoạch, phân bố không gian phát triển ngành: quy hoạch theo hướng hình thành rõ nét các cụm công nghiệp chuyên môn hoá theo chuỗi cung ứng trong nước và toàn cầu để nâng cao GTGT, hình thành các trục/ vùng mũi nhọn chuyên môn hoá gắn với quy hoạch vùng và lãnh thổ để khai thác có hiệu quả các lợi thế và địa kinh tế.

Bốn là, phát triển thị trường, tăng cường sát nhập và tái cơ cấu các doanh nghiệp chế biến, hợp lý hoá bố cục và cấu trúc doanh nghiệp: thông qua hệ thống chứng khoán và hệ thống hợp tác chứng khoán để tái cấu trúc doanh nghiệp; thành lập các nhóm doanh nghiệp để mở rộng quy mô của các doanh nghiệp chế biến; hỗ trợ các doanh nghiệp thị xã, địa phương trong việc quản lý vận hành hiện đại và phát triển công nghiệp chế biến như lĩnh vực bảo quản, giữ tươi, vận chuyển sản phẩm chăn nuôi và các sản phẩm phụ.

Năm là, nâng cao tiến bộ khoa học và công nghệ trong công nghiệp chế biến nông sản: mở rộng việc giới thiệu, chuyển giao các công nghệ nước ngoài, hàng thủ công, thiết bị và quản lý, áp dụng các biện pháp bổ sung, khuyến khích đầu tư trực tiếp vốn giữa các nước và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của quá trình chế biến nông sản; mở rộng việc sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật mới và đẩy mạnh nghiên cứu; đồng thời cần tích hợp công nghiệp chế biến nông sản với bảo vệ môi trường và giảm thiểu ô nhiễm để bảo vệ cân bằng sinh thái và tạo điều kiện phát triển bền vững.

Hình 2: Nhóm thực hiện đề tài thực địa tại Tập đoàn Scale AQ tại Việt Nam 

  1. Các điều kiện nào phù hợp để áp dụng cho Việt Nam? 

Một là, Đảng và Nhà nước đã và đang có định hướng chung, định hướng cụ thể, đặc biệt cho một số sản phẩm chủ lực để phát triển công nghiệp chế biến nông sản ở Việt Nam

Hai là, Nhà nước nỗ lực cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hoá các thủ tục đầu tư, rút ngắn thời gian chờ thông qua chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ số

Ba là, Chính phủ đã dần chú trọng đúng mức và tạo nhiều điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực công nghiệp chế biến nông sản.

Bốn là, trình độ phát triển khoa học công nghệ của Việt Nam đang dần tăng cao, chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam tiếp tục giữ vị trí thứ 42/131 quốc gia (2023) và Việt Nam nằm trong số các nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp thu được nhiều đổi mới ở nhóm chỉ số đầu ra hơn so với đầu vào, thuộc top 50 nền kinh tế đạt được tiến bộ đáng kể nhất trong bảng xếp hạng theo thời gian (Báo cáo của Ngân hàng Thế giới, 2023)

  1. Đâu là các điểm mới về giải pháp cần được công bố, chia sẻ với các nhà hoạch định chính sách?

Một là, đẩy mạnh tín dụng nông thôn: cần hoàn thiện khung pháp lý để phát triển cung ứng đồng bộ các sản phẩm dịch vụ tài chính nhằm tăng khả năng tiếp cận tín dụng với quy mô lớn và dài hạn hơn cho nông dân, trang trại, HTX và doanh nghiệp trong nông nghiệp; xây dựng cơ chế chính sách kết hợp chăt chẽ giữa các chương trình cho vay và bảo hiểm nông nghiệp theo chuỗi giá trị nông nghiệp. Cần sửa đổi, bổ sung về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng nâng mức cho vay tối đa không có tài sản bảo đảm đối với cá nhận, hộ gia đình, mở rộng đối tượng hưởng chính sách tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, cho phép sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay của các dự án, phương án ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp làm tài sản đảm bảo. Cần đơn giản hoá các thủ tục và điều kiện vay vốn.

              Cần bổ sung chính sách tín dụng ưu đãi cho các doanh nghiệp có quy mô lớn. Theo tính toán của một số doanh nghiệp, để đầu tư cho một dây chuyền chế biến từ surimi thành thanh càng cua (crabstick) cần tối thiểu 7 triệu đô la Mỹ (hơn 150 tỷ đồng); một doanh nghiệp chế biến lúa gạo có thể tận dụng nguyên liệu sản xuất ra dầu cám, mỹ phẩm, bánh gạo, sữa gạo... cần đầu tư dây chuyền có trị giá tối thiểu là 60 triệu đô la Mỹ (hơn 1.300 tỷ đồng). Vì vậy cơ chế ưu đãi tín dụng như trong quy định hiện nay là chưa đủ để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào dây chuyền công nghệ chế biến nông sản.

Hai là, phát triển bảo hiểm nông nghiệp: Cần phát triển thị trường bảo hiểm nông nghiệp để phòng ngừa rủi ro có hiệu quả, xoá bỏ tâm lý e ngại của các nhà đầu tư đối với mức độ rủi ro trong sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt cần ưu tiên triển khai các chương trình bảo hiểm, hỗ trợ phí bảo hiểm cho các hộ dân trong vùng chuyên canh, có liên kết với doanh nghiệp.

Hình 3: Tham quan tại trang trại chăn nuôi, chế biến gà tại huyện Vĩnh Phúc

Ba là, tăng cường chuyển giao, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất: Khuyến khích các doanh nghiệp đặt hàng trực tiếp với các nhà khoa học nghiên cứu công nghệ mới và sản phẩm mới trong chế biến sâu và mua lại bản quyền sáng chế của các nhà khoa học theo cơ chế thị trường. Ưu tiên hỗ trợ kinh phí các dự án đầu tư nghiên cứu chế tạo, sản xuất thử, thử nghiệm các thiết bị dây chuyền chế biến sâu nông sản chủ lực, đáp ứng yêu cầu công nghệ hiện đại, thiết bị tiên tiến, phù hợp với các điều kiện Việt Nam. Thực hiện cơ chế khoán kinh phí cho các nhà khoa học trong nghiên cứu công nghệ chế biến sâu và thiết bị chế biến hiện đại, tránh các thủ tục hành chính, tài chính phiền hà làm giảm động lực nghiên cứu, sáng tạo.

              Bốn là, phát triển nguồn nhân lực: Cần có chính sách đổi mới toàn diện từ chương trình và phương pháp đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng và trường nghề đến đào tạo ngắn hạn cho lực lượng lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp chế biến nông sản. Hỗ trợ 70% kinh phí đào tạo, đào tạo lại trong nước để nâng cao chất lượng đội ngũ kỹ thuật viên, đáp ứng yêu cầu vận hành của các dây chuyền chế biến sâu nông sản thiết bị hiện đại, tiên tiến. Hỗ trợ 100% kinh phí bồi dưỡng, tập huấn một lần tại chỗ cho lực lượng công nhân trực tiếp sản xuất với mức chi phí cho bồi dưỡng, tập huấn hợp lý ở thời điểm hỗ trợ.

 

 

 Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN và Trung tâm Ươm tạo và Đào tạo công nghệ cao (HITC) hợp tác trong phát triển đào tạo khởi nghiệp gắn với đổi mới sáng tạo

Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN và Trung tâm Ươm tạo và Đào tạo công nghệ cao (HITC) hợp tác trong phát triển đào tạo khởi nghiệp gắn với đổi mới sáng tạo

Vào ngày 12/08/2025, Đoàn công tác của Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN đã có buổi làm việc và trao đổi với Trung tâm ươm tạo và đào tạo công nghệ cao. Chuyến ...

Chi tiết
Tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai tại UEB - Nền tảng cho nhân lực chất lượng cao và hội nhập toàn cầu

Tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai tại UEB - Nền tảng cho nhân lực chất lượng cao và hội nhập toàn cầu

Nội dung trọng tâm trong Kết luận số 91-KL/TW của Bộ Chính trị về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” đang được hết sức quan tâm. Trường Đại ...

Chi tiết
Hội nghị Viên chức, Người lao động 2025: UEB đặt mục tiêu vươn tầm khu vực, tiên phong trong đào tạo kinh tế

Hội nghị Viên chức, Người lao động 2025: UEB đặt mục tiêu vươn tầm khu vực, tiên phong trong đào tạo kinh tế

Vừa qua, Trường Đại học Kinh tế – ĐHQGHN (UEB) đã trang trọng tổ chức Hội nghị Viên chức, Người lao động và Tổng kết năm học 2024–2025. Đây là sự kiện ...

Chi tiết
Giảng viên UEB - Sứ mệnh đào tạo nhân tài và nâng tầm sự nghiệp nghiên cứu quốc tế

Giảng viên UEB - Sứ mệnh đào tạo nhân tài và nâng tầm sự nghiệp nghiên cứu quốc tế

Trường Đại học Kinh tế – ĐHQGHN (UEB-VNU) là nơi hội tụ những giảng viên giàu khát vọng đổi mới sáng tạo, vừa là người truyền lửa tri thức cho các thế ...

Chi tiết
Các công đoàn viên UEB: Tự tin, chuyên nghiệp với diện mạo chuẩn cùng chương trình “Makeup công sở”

Các công đoàn viên UEB: Tự tin, chuyên nghiệp với diện mạo chuẩn cùng chương trình “Makeup công sở”

Với mong muốn nâng cao kiến thức chăm sóc bản thân, xây dựng hình ảnh chuyên nghiệp và tự tin cho cán bộ, giảng viên, Ban Chấp hành Công đoàn Trường Đại ...

Chi tiết
Tuyển dụng Giảng viên Khối ngành Kinh tế, Kinh doanh tại UEB: Cơ hội hiện tại - Sự nghiệp tương lai

Tuyển dụng Giảng viên Khối ngành Kinh tế, Kinh doanh tại UEB: Cơ hội hiện tại - Sự nghiệp tương lai

Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội (UEB) luôn đi đầu trong việc kiến tạo nên cơ hội nghề nghiệp hấp dẫn cho những ai có đam mê giảng dạy, ...

Chi tiết
Cảnh báo về các trường hợp vi phạm việc sử dụng các nhãn hiệu đã đăng ký của Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội

Cảnh báo về các trường hợp vi phạm việc sử dụng các nhãn hiệu đã đăng ký của Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội

Căn cứ Văn bằng và quyết định của Cục sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam cụm “UEB” đã được đăng ký bảo hộ nguyên cụm chữ, bao gồm tất cả ...

Chi tiết
Sinh viên UEB học “xuyên biên giới” với Khóa học mùa hè tại Trường Kinh tế Quốc tế ICEF HSE, Liên bang Nga

Sinh viên UEB học “xuyên biên giới” với Khóa học mùa hè tại Trường Kinh tế Quốc tế ICEF HSE, Liên bang Nga

Vừa qua, các sinh viên Trường Đại học Kinh tế – ĐHQGHN (UEB) đã tham dự Khóa học Mùa hè Quốc tế lần thứ nhất về Kinh tế và Tài chính tại Trường Kinh tế ...

Chi tiết
Trường Đại học Kinh tế – ĐHQGHN: Điểm đến của những giảng viên khát khao cống hiến và bứt phá sự nghiệp

Trường Đại học Kinh tế – ĐHQGHN: Điểm đến của những giảng viên khát khao cống hiến và bứt phá sự nghiệp

Trường Đại học Kinh tế – ĐHQGHN (UEB-VNU) không chỉ là cái nôi đào tạo những thế hệ sinh viên bản lĩnh, sáng tạo mà còn là điểm đến lý tưởng cho những ...

Chi tiết