BÀI BÁO KHOA HỌC

Giá trị phi sử dụng của Làng cổ Đường Lâm: Gợi mở chính sách bảo tồn dựa trên bằng chứng định lượng

P. NCKH&HTPT tổng hợp 11:13 20/08/2025

Bài viết “Lượng giá giá trị phi sử dụng của Làng cổ Đường Lâm bằng phương pháp định giá ngẫu nhiên” do nhóm tác giả Nguyễn Thị Vĩnh Hà, Phạm Thị Linh và Nguyễn Thành Đạt (Trường Đại học Kinh tế – ĐHQGHN) thực hiện, tập trung định lượng giá trị văn hóa phi vật chất của di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia Đường Lâm. Dựa trên khảo sát 132 du khách và áp dụng phương pháp định giá ngẫu nhiên (CVM), nghiên cứu ước tính mức sẵn lòng chi trả trung bình 46.613 đồng/người, tương ứng gần 2.800 tỷ đồng giá trị phi sử dụng. Kết quả này cung cấp cơ sở khoa học cho chính sách bảo tồn di sản, đồng thời nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững.

Làng cổ Đường Lâm, nằm tại thị xã Sơn Tây – Hà Nội, là một trong số ít ngôi làng còn giữ được gần như nguyên vẹn cấu trúc kiến trúc, cảnh quan và văn hóa truyền thống của làng quê Bắc Bộ xưa. Với hơn 50 di tích lịch sử, trong đó có 117 ngôi nhà cổ có niên đại từ 100 đến 400 năm và hệ thống đình, đền, giếng cổ, không gian làng xã chặt chẽ theo trục xương cá truyền thống, Đường Lâm được ví như “bảo tàng sống” về nông thôn truyền thống Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, di sản này đang đối mặt với nhiều thách thức: đô thị hóa nhanh, nhu cầu nhà ở gia tăng, lợi ích từ du lịch chưa phân bổ đồng đều và xung đột giữa bảo tồn và phát triển.

Trong bối cảnh đó, việc lượng hóa giá trị kinh tế của di sản – đặc biệt là những giá trị không thể đo lường bằng thị trường – là cần thiết để cung cấp luận cứ khoa học hỗ trợ quá trình hoạch định chính sách bảo tồn. Nghiên cứu của giảng viên và sinh viên Trường Đại học Kinh tế – ĐHQGHN đã sử dụng phương pháp định giá ngẫu nhiên (CVM) để ước tính giá trị phi sử dụng của Làng cổ Đường Lâm. Khác với giá trị sử dụng trực tiếp (như bán vé, dịch vụ du lịch…), giá trị phi sử dụng bao gồm giá trị tồn tại, giá trị để lại cho thế hệ sau và giá trị lựa chọn (giá trị có thể sử dụng trong tương lai). Đây là những yếu tố quan trọng nhưng thường bị bỏ qua trong hoạch định chính sách bảo tồn di sản văn hóa.

Phương pháp nghiên cứu được triển khai qua khảo sát trực tiếp với 132 du khách Việt Nam đã từng đến tham quan Làng cổ Đường Lâm. Đối tượng được lựa chọn là người trong độ tuổi từ 18 đến 60 – nhóm tuổi có thu nhập và khả năng đóng góp cho các hoạt động bảo tồn. Kết quả cho thấy, mức sẵn sàng chi trả trung bình của mỗi người là 46.613 đồng cho việc bảo tồn di sản. Khi nhân với tổng dân số trong độ tuổi lao động và điều chỉnh theo tỷ lệ 94% người được khảo sát sẵn sàng đóng góp, tổng giá trị phi sử dụng của di sản này ước đạt khoảng 2.800 tỷ đồng. Đây là một con số rất lớn nếu đặt trong tương quan so sánh với ngân sách bảo tồn hiện nay, và thể hiện rõ nhu cầu xã hội đối với việc gìn giữ các giá trị văn hóa – lịch sử lâu đời.

Ngoài việc đưa ra kết quả định lượng, nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến mức sẵn sàng chi trả của người dân. Cụ thể, thu nhập, độ tuổi và tình trạng hôn nhân có ảnh hưởng đáng kể đến WTP. Người có thu nhập cao hơn và người trẻ tuổi có xu hướng đóng góp nhiều hơn. Ngoài ra, mức độ hài lòng với trải nghiệm du lịch cũng có tác động tích cực đến sẵn sàng chi trả, cho thấy vai trò của chất lượng dịch vụ trong nâng cao sự gắn bó và trách nhiệm cộng đồng đối với di sản.

Đóng góp quan trọng nhất của nghiên cứu là cung cấp một cách tiếp cận cụ thể, có cơ sở thực tiễn và khoa học để lượng hóa giá trị phi vật chất của di sản văn hóa – điều mà các báo cáo tài chính truyền thống chưa làm được. Kết quả này có thể được sử dụng như một căn cứ quan trọng để thiết kế các chính sách huy động nguồn lực xã hội cho bảo tồn di sản, ví dụ như thông qua mô hình du lịch cộng đồng, quỹ bảo tồn địa phương, hay thu phí môi trường văn hóa từ du khách trên cơ sở tự nguyện. Hơn thế nữa, số liệu WTP còn có thể được sử dụng để lượng hóa lợi ích trong các bài toán phân tích chi phí – lợi ích khi lựa chọn phương án bảo tồn hay phát triển, đồng thời hỗ trợ xác định quy mô đầu tư phù hợp từ ngân sách nhà nước và các tổ chức tài trợ quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh nhiều di sản, dù có giá trị lớn, vẫn bị xem nhẹ do thiếu minh chứng định lượng về đóng góp của chúng vào phát triển kinh tế – xã hội.

Từ góc độ chính sách, nghiên cứu gợi mở một số hàm ý quan trọng. Trước hết, cần đổi mới cách tiếp cận quản lý di sản, từ “bảo tồn theo ngân sách” sang “bảo tồn theo giá trị xã hội”. Thay vì chỉ trông chờ vào đầu tư nhà nước, các chính quyền địa phương có thể xây dựng mô hình hợp tác công – tư, trong đó người dân và doanh nghiệp cùng tham gia vào bảo tồn thông qua các hình thức tài chính sáng tạo như đóng góp tự nguyện hay liên kết với quỹ di sản quốc tế. Thứ hai, cần chú trọng đến vai trò của cộng đồng trong bảo tồn di sản, thông qua việc phân chia hợp lý lợi ích từ du lịch và đào tạo nâng cao năng lực làm dịch vụ cho cư dân bản địa. Chỉ khi người dân được hưởng lợi trực tiếp và công bằng từ di sản, họ mới thực sự trở thành những “người giữ hồn” cho không gian văn hóa truyền thống. Thứ ba, cần xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giá trị kinh tế của các di sản văn hóa, từ đó tích hợp vào chiến lược phát triển du lịch bền vững và quy hoạch không gian đô thị. Với hàng nghìn di tích trải dài khắp cả nước, Việt Nam đang sở hữu nguồn tài sản văn hóa khổng lồ – nhưng nếu không có phương pháp định giá phù hợp, các di sản này sẽ dần mai một do thiếu nguồn lực bảo tồn.

Trong bối cảnh cả nước đang nỗ lực xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tri thức và phát triển bền vững, việc lượng hóa giá trị phi sử dụng của di sản như nghiên cứu này không chỉ là một nỗ lực học thuật mà còn mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Nó cho thấy rằng, các giá trị văn hóa không chỉ là “quá khứ để chiêm ngưỡng” mà còn là “nguồn lực để phát triển”, nếu được nhìn nhận đúng và có cơ chế khai thác phù hợp. Nghiên cứu là minh chứng cho vai trò tiên phong của Trường Đại học Kinh tế – ĐHQGHN trong việc kết nối tri thức khoa học với thực tiễn phát triển. Với sự kết hợp giữa nền tảng học thuật vững chắc, phương pháp nghiên cứu hiện đại và tinh thần phụng sự cộng đồng, các công trình như vậy sẽ tiếp tục đóng góp thiết thực cho sự nghiệp phát triển bền vững đất nước, đồng thời góp phần định hình một mô hình đại học nghiên cứu gắn với trách nhiệm xã hội.

 

>>> THÔNG TIN BÀI BÁO

Nguyễn Thị Vĩnh Hà, Phạm Thị Linh, Nguyễn Thành Đạt, “Lượng giá giá trị phi sử dụng của Làng cổ Đường Lâm bằng phương pháp định giá ngẫu nhiên”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 36, 12/2023.

>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

TS. Nguyễn Thị Vĩnh Hà là giảng viên và Chủ nhiệm Bộ môn Kinh tế học, Trường Đại học Kinh tế – ĐHQGHN, với chuyên môn sâu về kinh tế phát triển, lượng giá tài nguyên – môi trường, kinh tế xanh và phát triển bền vững. Bà có thế mạnh nổi bật về nghiên cứu định lượng, đặc biệt trong ứng dụng các phương pháp phân tích dữ liệu kinh tế và mô hình lượng giá. Các công trình nghiên cứu của TS. Hà tập trung vào các chủ đề liên ngành như tác động của biến đổi khí hậu, kinh tế di sản, kinh tế tuần hoàn và chính sách tài chính – tín dụng xanh.
Hành vi tiêu dùng thức ăn đường phố của nhân viên văn phòng trong bữa trưa tại các đô thị lớn tại Việt Nam

Hành vi tiêu dùng thức ăn đường phố của nhân viên văn phòng trong bữa trưa tại các đô thị lớn tại Việt Nam

Bài viết “Lunchtime on the go: Understanding street food consumption habits of office workers in cities in Vietnam” của Phạm Ngọc Hương Quỳnh và cộng sự ...

Chi tiết
Tác động lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước tại Việt Nam

Tác động lan tỏa của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến hiệu quả kỹ thuật của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước tại Việt Nam

Nghiên cứu “The spill-over effects of foreign direct investment on technical efficiency of domestic supporting industry firms in Vietnam” của Nguyễn Quỳnh ...

Chi tiết
Vai trò của quản trị nguồn nhân lực và quản lý chất lượng để cải thiện năng suất trong ngành quản lý khách sạn

Vai trò của quản trị nguồn nhân lực và quản lý chất lượng để cải thiện năng suất trong ngành quản lý khách sạn

Nghiên cứu “Roles of human resource management and quality management practices to improve productivity in hotel business of emerging economies” của Trần ...

Chi tiết
Chuyển đổi tiêu dùng: Phân tích tác động của ý thức về môi trường và sức khỏe đến lựa chọn thực phẩm xanh ở Việt Nam

Chuyển đổi tiêu dùng: Phân tích tác động của ý thức về môi trường và sức khỏe đến lựa chọn thực phẩm xanh ở Việt Nam

Bài báo “Consumer transition: analyzing the impact of environmental and health consciousness on green food choices in Vietnam" của Nguyễn Văn Phương và ...

Chi tiết
Các nhân tố quyết định rủi ro thanh khoản tài trợ trong hoạt động cho vay phi tập trung

Các nhân tố quyết định rủi ro thanh khoản tài trợ trong hoạt động cho vay phi tập trung

Hoạt động cho vay phi tập trung (DeFi lending) trong hệ sinh thái tài chính phi tập trung (DeFi) có nhiều nét tương đồng với ngân hàng truyền thống nhưng ...

Chi tiết
Chương trình báo cáo bắt buộc về phát thải khí nhà kính có ngăn chặn hành vi tẩy xanh của doanh nghiệp hay không?

Chương trình báo cáo bắt buộc về phát thải khí nhà kính có ngăn chặn hành vi tẩy xanh của doanh nghiệp hay không?

Bài báo “Does mandatory greenhouse gas emissions reporting program deter corporate greenwashing?” của Lưu Hạnh Nguyên (Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN) ...

Chi tiết
Thái độ của người tiêu dùng về sức khỏe và môi trường đối với việc mua thực phẩm địa phương

Thái độ của người tiêu dùng về sức khỏe và môi trường đối với việc mua thực phẩm địa phương

Bài báo “Consumers’ health and environmental attitudes and local food purchases” của TS. Trần Thế Lân và cộng sự công bố trên tạp chí Int. J. Environ. ...

Chi tiết
Phân tích so sánh xuyên quốc gia về quá trình chính sách xã hội: Hàm ý cho phát triển bền vững ở Việt Nam

Phân tích so sánh xuyên quốc gia về quá trình chính sách xã hội: Hàm ý cho phát triển bền vững ở Việt Nam

Bài báo “Cross-country comparative analysis of social policy process: Implications for sustainable development in Vietnam” của Đỗ Phú Hải công bố trên ...

Chi tiết
Xây dựng nền kinh tế tuần hoàn để phát triển bền vững

Xây dựng nền kinh tế tuần hoàn để phát triển bền vững

Những năm gần đây, xu hướng chuyển dịch từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn đang lan tỏa mạnh mẽ trên toàn cầu, trở thành hướng đi tất yếu để ...

Chi tiết