Nâng cấp công nghiệp thông qua máy móc là chìa khóa để tăng năng suất và năng lực cạnh tranh, song các nước đang phát triển như Việt Nam vẫn đối mặt nhiều rào cản về vốn, nhân lực và chính sách. Nghiên cứu “Machinery Usage and Productivity in Manufacturing: Firm-Level Matter in Developing Countries” của Trần Thị Mai Thành - giảng viên Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN và cộng sự công bố trên Emerging Science Journal, Vol. 9, No. 4 (2025) phân tích dữ liệu doanh nghiệp giai đoạn 2010–2019 cho thấy máy móc điều khiển bằng máy tính mang lại hiệu quả rõ rệt với doanh nghiệp vừa và lớn, trong khi doanh nghiệp nhỏ vẫn phụ thuộc công cụ thủ công với năng suất ngắn hạn. Kết quả nhấn mạnh rằng nâng cao năng suất bền vững đòi hỏi không chỉ đổi mới công nghệ mà còn cần chính sách hỗ trợ, đào tạo nhân lực và cải thiện quản trị doanh nghiệp.
Việc nâng cấp công nghiệp thông qua máy móc là yếu tố thiết yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng trưởng năng suất, song các nước đang phát triển như Việt Nam gặp nhiều rào cản như hạn chế tài chính, thiếu nhân lực chất lượng cao và môi trường chính sách phân mảnh. Máy móc thủ công vẫn chiếm ưu thế, trong khi máy móc điều khiển bằng máy tính mới chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Điều này phản ánh thách thức lớn trong tiến trình công nghiệp hóa, đặt ra nhu cầu cấp thiết về chính sách hỗ trợ theo quy mô và ngành nghề nhằm thu hẹp khoảng cách công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh dài hạn. Bài viết phân tích các yếu tố quyết định việc sử dụng máy móc và mối quan hệ của nó với năng suất của doanh nghiệp sản xuất Việt Nam giai đoạn 2010 - 2019. Kết quả cho thấy các doanh nghiệp vừa và lớn có xu hướng sử dụng máy móc điều khiển bằng máy tính và ghi nhận mối liên hệ tích cực với năng suất lao động, nhưng tác động này giảm dần theo thời gian. Trong khi đó, doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ vẫn phụ thuộc vào công cụ thủ công với hiệu quả năng suất ngắn hạn và thiếu ổn định. Doanh nghiệp FDI hưởng lợi ổn định hơn so với doanh nghiệp nhà nước. Nghiên cứu nhấn mạnh rằng việc cải thiện năng suất bền vững không chỉ dựa vào nâng cấp công nghệ mà cần có đầu tư bổ trợ vào đào tạo nhân lực, nâng cao năng lực quản trị và hỗ trợ thể chế.
Nghiên cứu góp phần bổ sung bằng chứng thực nghiệm cho lý thuyết về sự khác biệt trong việc sử dụng máy móc và tác động đến năng suất giữa các nhóm doanh nghiệp theo quy mô, sở hữu và ngành trong bối cảnh các nền kinh tế đang phát triển. Về mặt phương pháp, nghiên cứu sử dụng mô hình logit đa thức kết hợp hồi quy bảng theo sai phân bậc một và bậc hai, giúp làm rõ sự khác biệt theo dòng thời gian đối với việc sử dụng máy móc và tác động của nó đến năng suất lao động và TFP. Về mặt nội dung, nghiên cứu đóng góp những điểm mới quan trọng trong việc phân tích mối quan hệ giữa sử dụng máy móc và năng suất doanh nghiệp Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ sự khác biệt rõ ràng trong việc sử dụng máy móc theo quy mô doanh nghiệp, cơ cấu sở hữu và bối cảnh ngành, qua đó chỉ ra rằng không phải mọi doanh nghiệp đều có khả năng chuyển hóa việc áp dụng công nghệ thành cải thiện năng suất mà phụ thuộc nhiều vào sự chênh lệch kéo dài về mức độ sẵn sàng công nghệ, khả năng tiếp cận vốn và năng lực tổ chức
Thứ hai, nghiên cứu chứng minh rằng liên hệ của sự tăng trưởng năng suất từ việc sử dụng máy móc hiện đại nhìn chung chỉ mang tính ngắn hạn và có thể bị xói mòn theo thời gian, phụ thuộc đáng kể vào khả năng tiếp cận vốn đầu tư bền vững của từng doanh nghiệp - đây là điểm bổ sung mang tính phân hóa tương đối cao trong bối cảnh doanh nghiệp tại các nước đang phát triển.
Thứ ba, nghiên cứu phản ánh mối liên hệ giữa việc sử dụng máy móc đến năng suất, được đặt trong bối cảnh phụ thuộc vào ngành nghề và thị trường khác biệt. Sự khác biệt này phản ánh vai trò của cạnh tranh, động lực ngành và điều kiện địa lý trong vấn đề tối ưu hóa hiệu quả đầu tư công nghệ.
Dựa trên các kết quả thực nghiệm, nghiên cứu đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm thúc đẩy việc sử dụng máy móc hiệu quả, thu hẹp khoảng cách công nghệ và nâng cao năng suất của doanh nghiệp chế biến, chế tạo Việt Nam.
Thứ nhất, lợi ích về năng suất từ việc sử dụng máy móc không phải lúc nào cũng tự động đạt được mà phụ thuộc nhiều vào năng lực nội tại của từng doanh nghiệp cũng như loại máy móc được áp dụng. Do đó, chính sách cần tập trung tăng cường năng lực tiếp thu công nghệ của doanh nghiệp thay vì chỉ đơn thuần khuyến khích nhập khẩu hay đầu tư vào máy móc thiết bị.
Thứ hai, các chiến lược hỗ trợ cần được thiết kế riêng phù hợp với từng nhóm doanh nghiệp và bối cảnh ngành. Thay vì dừng ở hỗ trợ vốn đầu tư, các nhà hoạch định chính sách nên chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng lực quản lý và xây dựng hệ thống hạ tầng khuếch tán công nghệ. Đây là những yếu tố then chốt để doanh nghiệp áp dụng công nghệ hiệu quả, nâng cao năng suất lao động và TFP, hướng tới phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Cuối cùng, cần chủ trương triển khai các chương trình hỗ trợ theo đặc thù vùng và quy mô doanh nghiệp. Những chính sách nhắm đúng mục tiêu sẽ giúp khắc phục sự chênh lệch kéo dài về năng lực hấp thụ giữa các nhóm doanh nghiệp, đồng thời thúc đẩy nâng cấp công nghiệp theo hướng toàn diện hơn, tránh tạo ra sự khác biệt mới giữa các khu vực và loại hình doanh nghiệp.
>>> THÔNG TIN BÀI BÁO
Nguyen, M. H., Vu, H. D., Thanh, T. T. M., & Pham, S. A. (2025). Machinery Usage and Productivity in Manufacturing: Firm-Level Matter in Developing Countries. Emerging Science Journal, 9(4), 2026–2044. https://doi.org/10.28991/ESJ-2025-09-04-015
>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
![]() | TS. Trần Thị Mai Thành hiện đảm nhiệm chức vụ Phó Trưởng khoa, Phó Chủ nhiệm Bộ môn Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế thuộc Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. TS. Trần Thị Mai Thành đã có nhiều năm thâm niên nghiên cứu vị trí Nghiên cứu viên tại Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. |
Nghiên cứu “The role of mindfulness in promoting purchase intention” của Nguyễn Thu Hà, Hoàng Đàm Lương Thúy và cộng sự công bố trên Spanish Journal of ...
Chi tiếtBài nghiên cứu “Chief Financial Officer Overconfidence and Earnings Management” của Nguyễn Huy Tâm và cộng sự công bố trên tạp chí Accounting Forum (2023) ...
Chi tiếtBài nghiên cứu “CEO Gender Perspectives in Climate and Environmental Governance: A Systematic Literature Review and Bibliometric Analysis” của Nguyễn Huy ...
Chi tiếtNghiên cứu “Factors influencing residents’ willingness to pay for mangrove forest environmental services in Phu Long, Vietnam” của Lưu Quốc Đạt - giảng ...
Chi tiếtNghiên cứu “Households’ willingness-to-pay for mangrove environmental services: Evidence from Phu Long, Northeast Vietnam” của Lưu Quốc Đạt - giảng viên ...
Chi tiếtBài nghiên cứu “The impact of social responsibility on the competitive advantage of small and medium-sized enterprises in Hanoi, Vietnam” của Nguyễn Đình ...
Chi tiếtNghiên cứu “The Impact of Innovation-Driven Digital Transformation on Export Performance of SMEs” của Đỗ Thị Thơ - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và ...
Chi tiếtQuá trình chuyển đổi rừng ở Việt Nam đang hướng tới nâng cao chất lượng rừng trồng, hiệu quả kinh tế và dịch vụ môi trường, song vẫn đối mặt nhiều yếu ...
Chi tiếtSinh kế của nông hộ và tính bền vững môi trường là hai vấn đề trọng tâm của nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh đất đai thoái hóa do canh tác thâm canh ...
Chi tiết