Thiếu hụt tài chính là một trong những nguyên nhân chính khiến nhiều dự án bảo vệ môi trường kém hiệu quả hoặc thất bại. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước dành cho lĩnh vực này còn hạn chế, việc huy động nguồn lực tài chính từ khu vực tư nhân được xem là một hướng đi quan trọng. Nghiên cứu “Closing nature connectedness to foster environmental culture: investigating urban residents’ utilization and contribution to parks in Vietnam” của TS. Khúc Văn Quý và các cộng sự Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN công bố trên tạp chí Discover Sustainability Vol. 5, No. 144 (2024) nhằm khám phá tiềm năng trong việc khuyến khích người dân tại Việt Nam đóng góp tài chính cho các hoạt động bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ môi trường thông qua việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc cư dân đô thị sử dụng và sẵn sàng đóng góp tài chính cho các công viên công cộng và vườn quốc gia.
Nhóm tác giả giới thiệu và sử dụng phương pháp phân tích mới có tên CBMM (phương pháp Bayesian Mindsponge Mindspongeconomics kết hợp với tháp Văn hóa) để phân tích bộ dữ liệu gồm 535 cư dân đô thị Việt Nam được khảo sát vào cuối năm 2020. Kết quả phân tích cho thấy: những người thường xuyên đến công viên có xu hướng sẵn lòng đóng góp tài chính cho các dự án tại đó. Việc trồng cây xanh trong nhà cũng có mối liên hệ tích cực với hành vi ủng hộ các hoạt động bảo tồn. Ngoài ra, những ai có dự định thăm vườn quốc gia trong vòng 12 tháng tới lại có xu hướng tham gia hoặc hỗ trợ các dự án trồng cây ở công viên công cộng. Nghiên cứu còn phát hiện rằng việc tiêu thụ thịt thú rừng với tần suất cao làm giảm ý định ủng hộ các dự án bảo tồn.
Toàn văn bài báo công bố trên Discov Sustain 5, 144 (2024).
Đóng góp mới của bài báo
Nghiên cứu này nhằm nâng cao hiểu biết về các hình thức huy động tài chính từ cộng đồng, thông qua việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến cam kết đóng góp của người dân. Bằng cách áp dụng phương pháp CBMM, nghiên cứu đã đạt được nhiều phát hiện quan trọng.
Thứ nhất, đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên áp dụng mô hình Tháp Văn hóa (hay còn gọi là “tháp K.A.U.C/K.H.U.C”) cùng cách tiếp cận văn hóa để tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi sử dụng và đóng góp của cư dân đô thị đối với công viên công cộng và vườn quốc gia. Điều này đặt nền móng cho việc xây dựng khung lý thuyết và mô hình nghiên cứu cho các công trình tiếp theo. Nghiên cứu làm sáng tỏ vai trò của sự kết nối với thiên nhiên trong hành vi quyên góp của người dân nhằm hỗ trợ công tác bảo tồn. Khi con người cảm thấy gắn bó với thiên nhiên, họ có xu hướng đánh giá cao vẻ đẹp và giá trị của thiên nhiên hơn, qua đó sẵn sàng hơn trong việc tham gia và ủng hộ các nỗ lực bảo vệ môi trường. Các phát hiện từ nghiên cứu có thể được tích hợp trực tiếp vào quá trình thực thi và cải thiện Chiến lược Đa dạng sinh học quốc gia của Việt Nam và Luật Bảo vệ và Phát triển rừng. Các nhà hoạch định chính sách có thể phân bổ nguồn lực để xây dựng và triển khai các chương trình giáo dục nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của bảo tồn đa dạng sinh học. Bên cạnh đó, chính sách quy hoạch đô thị đòi hỏi phải thiết kế và triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, chẳng hạn như tăng mật độ cây xanh thông qua phát triển công viên, tạo thêm không gian xanh, trồng cây và các loại thực vật khác, cũng như khuyến khích người dân ra ngoài tiếp xúc với thiên nhiên để tăng sự gắn bó giữa con người và môi trường tự nhiên. Bên cạnh đó, việc nâng cao nhận thức của người dân về giá trị của thiên nhiên sẽ góp phần thúc đẩy quá trình hình thành văn hóa môi trường.
Thứ hai, bằng cách giới thiệu và ứng dụng phương pháp CBMM, nghiên cứu đã phân tích cả các yếu tố thúc đẩy và cản trở hành vi đóng góp cho môi trường. Kết quả cho thấy việc tiêu dùng các sản phẩm từ thiên nhiên không chỉ góp phần làm suy thoái hệ sinh thái mà còn làm giảm khả năng bảo vệ thiên nhiên. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải thay đổi hành vi tiêu dùng theo hướng xanh hơn để hỗ trợ công tác bảo tồn. Theo mô hình Tháp KHUC, điều này có thể đạt được thông qua việc nâng cao nhận thức về thiên nhiên và môi trường. Không chỉ có ý nghĩa trong việc huy động tài chính, việc thay đổi thói quen tiêu dùng theo hướng tiêu dùng xanh còn giúp giảm tác động lên tài nguyên thiên nhiên, đồng thời thúc đẩy thực hành kinh tế tuần hoàn và kinh tế xanh. Trong thực tiễn, điều này có thể thực hiện bằng cách giáo dục cộng đồng về giá trị phi thị trường của thiên nhiên, đặc biệt là giá trị tồn tại và giá trị truyền thừa cho thế hệ tương lai. Tuy nhiên, thay đổi thói quen tiêu dùng là một quá trình cần sự kiên trì, liên tục và thời gian.
Thứ ba, nghiên cứu này đưa ra một cách tiếp cận mới nhằm giải quyết ba cuộc khủng hoảng môi trường toàn cầu: biến đổi khí hậu, ô nhiễm và suy giảm đa dạng sinh học – hướng đến mục tiêu cuối cùng là xây dựng văn hóa môi trường. Mặc dù tiềm năng cắt giảm khí thải carbon trực tiếp từ công viên không cao bằng một số lĩnh vực khác, nhưng những khu vực này mang lại nhiều dịch vụ hệ sinh thái quan trọng giúp thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Nhờ có sự liên kết chặt chẽ với đời sống sinh hoạt của cư dân và dễ dàng tiếp cận, công viên có ảnh hưởng mạnh đến sự thay đổi hệ giá trị và tư duy của người dân, từ đó tác động đến nhận thức chi phí – lợi ích và quyết định hành vi vì môi trường. Cách tiếp cận dựa trên công viên đô thị và vườn quốc gia có thể được xem là một trong những giải pháp phù hợp và tiết kiệm để thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh trong đô thị, thông qua việc tận dụng hiệu quả sự hợp tác giữa khu vực công và tư.
Từ những phát hiện trên, nghiên cứu chỉ ra rằng việc tăng cường kiến thức môi trường và khơi dậy sự kết nối với thiên nhiên có thể góp phần thúc đẩy hành động tập thể, giúp giảm áp lực tài chính cho công tác bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên nhiên. Bằng cách nuôi dưỡng những hành vi tích cực trong việc sử dụng và đóng góp cho môi trường – những “DNA” văn hóa có thể truyền lại cho các thế hệ, chúng ta có thể từng bước xây dựng một nền văn hóa môi trường coi trọng và bảo vệ hành tinh sống của mình trong tương lai lâu dài. Nhóm tác giả kỳ vọng rằng những phát hiện từ nghiên cứu này sẽ góp phần nâng cao hiểu biết về các hình thức tham gia và đóng góp vào bảo tồn thiên nhiên, đồng thời cung cấp nhiều giải pháp thực tiễn nhằm thúc đẩy văn hóa môi trường trong cộng đồng cư dân đô thị, qua đó nâng cao chất lượng sống cho người dân, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển.
>>> THÔNG TIN BÀI BÁO
Khuc, V.Q., Tran, M., Thinh, N.A. et al. Closing nature connectedness to foster environmental culture: investigating urban residents’ utilization and contribution to parks in Vietnam. Discov Sustain 5, 144 (2024). https://doi.org/10.1007/s43621-024-00350-y
>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
![]() | TS. Khúc Văn Quý là Chủ nhiệm Bộ môn Kinh tế môi trường và Phát triển bền vững, Khoa Kinh tế Phát triển, Trường Đại học Kinh tế – ĐHQGHN. Ông có hơn 60 bài báo khoa học, trong đó hơn 30 công bố quốc tế trong hệ thống ISI/Scopus, là thành viên Ban biên tập tạp chí quốc tế uy tín thuộc NXB Springer từ năm 2024. TS. Khúc Văn Quý nhận bằng Tiến sĩ Khoa học Lâm nghiệp chuyên sâu về kinh tế và chính sách tài nguyên rừng và môi trường tại Đại học Colorado State University - Hoa Kỳ năm 2018. Trước khi về công tác tại Trường Đại học Kinh tế, ông có thời gian làm việc với vị trí Postdoc tại Khoa Địa lý, Đại học University of Alabama (Hoa Kỳ) và là Chủ nhiệm Bộ môn Kinh tế học, Khoa Kinh tế và Kinh doanh, Trường Đại học Phenikaa. Các hướng nghiên cứu chính: Kinh tế môi trường, kinh tế phát triển, văn hóa môi trường và quản trị tri thức. Ông là tác giả của kinh tế học mới Mindspongeconomics và Tháp văn hóa (Culture Tower). |
![]() | PGS.TS. Nguyễn An Thịnh hiện là Trưởng Khoa Kinh tế Phát triển, Trường Đại học Kinh tế – ĐHQGHN. Ông là chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế phát triển, phát triển bền vững và khởi nghiệp, với bề dày kinh nghiệm trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và tư vấn chính sách cấp quốc gia. Thế mạnh nổi bật của PGS.TS. Nguyễn An Thịnh là tư duy hệ thống, năng lực nghiên cứu liên ngành và khả năng kết nối lý thuyết với thực tiễn. Ông đã công bố hơn 100 bài báo khoa học, xuất bản 10 đầu sách với NXB quốc tế Springer và hơn 20 đầu sách trong nước. Bên cạnh đó, ông cũng là chủ nhiệm của nhiều đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước, Bộ và Đại học Quốc gia, cùng với một sáng chế đã được đăng ký – thể hiện năng lực đổi mới sáng tạo mạnh mẽ. Hướng nghiên cứu chính của ông tập trung vào phát triển bền vững, quản trị tài nguyên, sinh kế nông thôn, kinh tế xanh, đổi mới sáng tạo và hệ sinh thái khởi nghiệp. |
![]() | PGS.TS. Hoàng Khắc Lịch hiện ông là Phó Hiệu trưởng, Trưởng phòng Tổ chức Nhân sự của Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Ông nhận bằng Tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế học tại Trường Quốc tế - Đại học Phòng Thương mại Thái Lan. Hướng nghiên cứu chính: Tăng trưởng kinh tế và các động lực của tăng trưởng, Chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Ông đã có hơn 30 bài báo công bố trong nước và quốc tế ISI/Scopus; đồng thời là đồng chủ biên, thành viên nhóm tác giả của 6 cuốn sách và là chủ nhiệm, thành viên nghiên cứu chủ chốt của 11 đề tài các cấp. |
![]() | TS. Nguyễn Thị Mai Hương là giảng viên thuộc Khoa Kinh tế Phát triển, Trường Đại học Kinh tế – ĐHQGHN. Thế mạnh của cô là khả năng kết hợp nghiên cứu lý luận kinh tế với thực tiễn phát triển ở Việt Nam, đặc biệt trong các lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), phát triển nông nghiệp bền vững và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hướng nghiên cứu chính của TS. Hương tập trung vào các yếu tố tác động đến dòng vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuyển đổi số trong kinh tế. Ngoài ra, cô còn có kinh nghiệm trong việc ứng dụng các mô hình định lượng như AHP, TOPSIS, SEM trong nghiên cứu kinh tế – xã hội với gần 50 công trình khoa học đã công bố, trong đó có các bài viết thuộc hệ Scopus và hội thảo quốc tế, 2 giáo trình và tham gia 5 đề tài các cấp. |
Nghiên cứu “An insight into the implications of investor sentiment on crash risk in Asia–Pacific stock markets: are uncertainty factors important?” của ...
Chi tiếtBài báo “Determinants of apartment price volatility in Vietnam: a comparison between Hanoi and Ho Chi Minh City” của PGS.TS. Nguyễn Thị Nhung - giảng viên ...
Chi tiếtBài báo “Assessment of Current Situation and Orientations for Exploitation, Utilization, and Protection of Groundwater Resources in Water–Scarce Areas ...
Chi tiếtBài báo “Middle-income traps: Experiences of Asian countries and lessons for Vietnam” của TS. Hoàng Xuân Vinh - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và nhóm ...
Chi tiếtBài báo “How to Win Consumer Intention in E-Commerce Platform in a High-Cost Urban City: A Case Study of Hanoi” của TS. Trần Thị Mai Thành - giảng viên ...
Chi tiếtNghiên cứu "The impact of provincial‑level institutional quality on attracting foreign direct investment in the Red River Delta provinces" của TS. Trần ...
Chi tiếtNghiên cứu "Enhancing Trade Facilitation to Boost Manufactured Goods Trade in Vietnam: A Case Study of a Transition Economy" của nhóm tác giả Nguyễn Anh ...
Chi tiếtNgành dệt may là một trong những ngành chủ đạo của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Ở Việt Nam, ngành dệt may có vai trò quan trọng như góp phần đảm ...
Chi tiếtBài nghiên cứu “Factors affecting dividend policy of listed manufacturing enterprises: A governance context” của TS. Nguyễn Thị Thanh Hải - giảng viên ...
Chi tiết