BÀI BÁO QUỐC TẾ

Tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và chất lượng xuất khẩu: Bằng chứng vi mô từ các doanh nghiệp chế biến, chế tạo tại một quốc gia đang phát triển

P. NCKH&HTPT tổng hợp 10:12 29/05/2025

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, việc tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu (GVCs) được coi là mục tiêu then chốt đối với mọi quốc gia. Với định hướng là nền kinh tế xuất khẩu, Việt Nam đã không ngừng nỗ lực để tăng cường mức độ tham gia vào GVCs trong vài thập kỷ qua. Tuy nhiên, quá trình này vẫn gặp phải nhiều thách thức, trong đó đáng kể nhất là giá trị gia tăng trong nước của các sản phẩm xuất khẩu còn thấp. Nghiên cứu “Engagement in global value chains and export quality: Micro evidence from manufacturing firms in a developing country” của TS. Trần Nguyễn Ngọc Cương - giảng viên UEB và cộng sự công bố trên The Journal of International Trade & Economic Development (2025) phân tích mối quan hệ giữa sự tham gia vào GVCs và chất lượng sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt Nam trong giai đoạn 2010-2020.

Kết quả thực nghiệm cho thấy, sự tham gia vào liên kết ngược trong chuỗi giá trị có tác động tích cực đến chất lượng sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp. Tuy nhiên, không có bằng chứng thực nghiệm nào cho thấy việc tham gia vào liên kết xuôi trong chuỗi giá trị giúp cải thiện chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp chế biến, chế tạo.

Đóng góp mới và hàm ý chính sách

Nghiên cứu góp phần làm phong phú nền tảng lý thuyết hiện có về mối quan hệ giữa sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Về phương pháp tiếp cận, nghiên cứu tạo tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo về GVCs dựa trên cách tiếp cận vi mô. Dựa trên các kết quả thực nghiệm, nghiên cứu đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp chế biến, chế tạo Việt Nam tăng cường hội nhập sâu hơn vào các chuỗi giá trị toàn cầu, đặc biệt là liên kết ngược trong chuỗi giá trị.

Thứ nhất, Chính phủ cần thúc đẩy đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTAs) với các quốc gia trên thế giới. Thông qua các FTAs, chi phí và rào cản thương mại sẽ được giảm thiểu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận và nhập khẩu các đầu vào trung gian đa dạng, có chất lượng cao với mức giá cạnh tranh hơn. Điều này không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn cải thiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. 

 

Toàn văn bài báo công bố trên The Journal of International Trade & Economic Development.

 

Thứ hai, cần có các chính sách ưu đãi nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), bởi FDI là kênh lan tỏa công nghệ hiệu quả, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Đặc biệt, thu hút FDI xanh giúp các doanh nghiệp trong nước tiếp cận quy trình sản xuất thân thiện với môi trường, từng bước hiện đại hóa quy trình sản xuất theo hướng phát triển bền vững, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, Chính phủ cũng cần thành lập các viện nghiên cứu nhằm tích hợp tri thức trong nước và quốc tế thông qua sự hợp tác giữa các chuyên gia trong và ngoài nước, từ đó hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng đổi mới sáng tạo vào cải tiến sản phẩm.

Thứ ba, Chính phủ cần phối hợp với Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại triển khai các gói tín dụng ưu đãi, giúp doanh nghiệp giảm gánh nặng tài chính, tăng khả năng đầu tư vào hoạt động nghiên cứu & phát triển (R&D), nâng cấp hạ tầng, máy móc, trang thiết bị hiện đại đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế nhằm phục vụ sản xuất hàng hóa chất lượng cao. Từ đó, giúp doanh nghiệp củng cố vị thế trong liên kết ngược và từng bước vươn lên các vị trí cao hơn trong chuỗi giá trị.

Thứ tư, nâng cao năng suất lao động là điều kiện tiên quyết để cải thiện chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Do đó, doanh nghiệp cần chú trọng đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Việc phát triển nguồn nhân lực không chỉ thúc đẩy quá trình đổi mới và nâng cấp sản phẩm mà còn giúp doanh nghiệp chủ động ứng phó với các vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất, đồng thời đảm bảo chất lượng sản phẩm.

Cuối cùng, nghiên cứu chỉ ra rằng các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp thường có chất lượng sản phẩm xuất khẩu cao hơn. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 21,9% doanh nghiệp chế biến, chế tạo tại Việt Nam hoạt động trong các khu công nghiệp. Do đó, cần có các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ từ Chính phủ và các cơ quan quản lý địa phương nhằm thúc đẩy doanh nghiệp ngoài khu công nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm doanh nghiệp, góp phần vào sự phát triển kinh tế toàn diện và bền vững.

 

>>> THÔNG TIN BÀI BÁO

Hoang, V. H., Tran, C. N. N., Tran, H. P., & Dong, V. C. (2025). Engagement in global value chains and export quality: Micro evidence from manufacturing firms in a developing country. The Journal of International Trade & Economic Development, 1–23. https://doi.org/10.1080/09638199.2025.2463398
 

>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐHKT

TS. Trần Nguyễn Ngọc Cương hiện giảng dạy tại Bộ môn Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế thuộc Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Hướng nghiên cứu chính bao gồm phát triển bền vững, quản lí dự án. 

ThS. Hoàng Việt Hà hiện giảng dạy tại Bộ môn Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế thuộc Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Hướng nghiên cứu chính bao gồm kinh tế quốc tế, chuỗi giá trị toàn cầu. 

 

Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 12 năm 2025)

Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 12 năm 2025)

Trân trọng giới thiệu Danh mục bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế của cán bộ, giảng viên Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN năm 2025 (Tính đến tháng 12 ...

Chi tiết
Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 11 năm 2025)

Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 11 năm 2025)

Trân trọng giới thiệu Danh mục bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế của cán bộ, giảng viên Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN năm 2025 (Tính đến tháng 11 ...

Chi tiết
Tác động của đặc điểm hội đồng quản trị đến hiệu suất kinh doanh trong kỷ nguyên 4.0: Nghiên cứu thực nghiệm từ các ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam

Tác động của đặc điểm hội đồng quản trị đến hiệu suất kinh doanh trong kỷ nguyên 4.0: Nghiên cứu thực nghiệm từ các ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam

Nghiên cứu “The Impact of Board Characteristics on Business Performance in the 4.0 Era: Empirical Research from Banks Listed on the Vietnamese Stock Exchange” ...

Chi tiết
Các nhân tố quyết định cải thiện năng suất lao động trong dịch vụ khách sạn: bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam

Các nhân tố quyết định cải thiện năng suất lao động trong dịch vụ khách sạn: bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam

Nghiên cứu “Determinants for labour productivity improvement in hotel service: empirical evidence from Vietnam” là kết quả nghiên cứu của Phan Chí Anh ...

Chi tiết
Tác động của vốn nhân lực và thái độ rủi ro đến quyết định của nông dân về các thực hành canh tác bền vững: Một phân tích tổng hợp

Tác động của vốn nhân lực và thái độ rủi ro đến quyết định của nông dân về các thực hành canh tác bền vững: Một phân tích tổng hợp

Nghiên cứu “Impact of human capital and risk preferences on farmers’ decisions towards sustainable farming practices: A meta-analysis” của Tô Thế Nguyên ...

Chi tiết
Liệu nông dân định hướng cộng đồng có sẵn lòng chuyển đổi sang hữu cơ hơn: Bằng chứng từ Việt Nam

Liệu nông dân định hướng cộng đồng có sẵn lòng chuyển đổi sang hữu cơ hơn: Bằng chứng từ Việt Nam

Bài báo "Do Community-Oriented Farmers Present a Greater Willingness for Organic Transition: Evidence from Vietnam” của Tô Thế Nguyên - giảng viên Trường ...

Chi tiết
Những câu chuyện về rừng? Làm sáng tỏ sự khác biệt giữa Bản đồ Biến động Sử dụng Đất và Thảm phủ (LULCC) và các diễn ngôn của Nhà nước tại vùng cao phía Bắc Việt Nam

Những câu chuyện về rừng? Làm sáng tỏ sự khác biệt giữa Bản đồ Biến động Sử dụng Đất và Thảm phủ (LULCC) và các diễn ngôn của Nhà nước tại vùng cao phía Bắc Việt Nam

Bài báo “Forest Tales? Unravelling Divergent Land Use and Land Cover Change (LULCC) Maps and State Narratives in Vietnam’s Northern Uplands” của Nguyễn ...

Chi tiết
Xây dựng các chỉ số để quản lý tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới tại Khu vực Tam giác Phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam dựa trên ý kiến chuyên gia sử dụng phương pháp Delphi

Xây dựng các chỉ số để quản lý tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới tại Khu vực Tam giác Phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam dựa trên ý kiến chuyên gia sử dụng phương pháp Delphi

Nghiên cứu “Building indicators for trans-boundary natural resource management in the Cambodia–Laos–Vietnam Development Triangle Area based on experts’ ...

Chi tiết
Tác động của trách nhiệm xã hội đến lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội, Việt Nam

Tác động của trách nhiệm xã hội đến lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội, Việt Nam

Bài viết “The impact of social responsibility on the competitive advantage of small and medium-sized enterprises in Hanoi, Vietnam” của Đỗ Thị Thơ - giảng ...

Chi tiết