BÀI BÁO QUỐC TẾ

Phân tích hiệu quả kinh tế và phân phối giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị tre luồng: Nghiên cứu tại tỉnh Thanh Hóa - Việt Nam

P. NCKH&HTPT tổng hợp 09:50 12/06/2025

Với lợi thế là một trong những quốc gia có diện tích rừng tre lớn nhất thế giới, Việt Nam đang nắm giữ tiềm năng phát triển to lớn từ ngành công nghiệp tre. Tuy nhiên, giá trị gia tăng mà ngành này mang lại vẫn chưa tương xứng, do những bất cập trong quản lý, phân phối lợi ích và hợp tác chuỗi. Bài báo “Analyzing economic performance and value added distribution in the Luong bamboo value chain: A case study of Thanh Hoa province, Vietnam” của nhóm tác giả La Thị Thắm - giảng viên UEB và cộng sự công bố trên tạp chí Trees, Forests and People, Vol. 16 (2024) đã đi sâu phân tích hai chuỗi sản phẩm đặc trưng – đũa tre và vàng mã – nhằm làm rõ cơ cấu tạo giá trị, hiệu quả tài chính và những điểm nghẽn trong phân phối lợi ích giữa các tác nhân. Kết quả nghiên cứu không chỉ cung cấp số liệu thực chứng quan trọng, mà còn đề xuất nhiều khuyến nghị chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy tính bền vững và công bằng cho ngành tre Việt Nam.

Với 1,5 triệu ha rừng tre, Việt Nam xếp thứ tư trong số các quốc gia sản xuất tre lớn nhất thế giới. Định hướng phát triển nền kinh tế sinh học với sự gia tăng việc sử dụng các nguồn tài nguyên tái tạo đã và đang tạo nên một môi trường thuận lợi cho ngành tre phát triển. Ngành công nghiệp tre tại Việt Nam được xem là có tiềm năng lớn, với giá trị sản xuất có thể lên tới 1 tỷ USD. Tuy nhiên, ngành này đang phải đối mặt với một số thách thức. Có thể kể đến như (i) công tác quản lý yếu kém và sự phổ biến của hoạt động khai thác quá mức nguồn tài nguyên tre; (ii) mối liên hệ và hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị tre còn yếu; (iii) tỷ lệ sử dụng nguyên liệu tre trong sản xuất còn thấp; (iv) phần lớn nguyên liệu tre được sử dụng để sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp, như cọc chống xây dựng, đũa dùng một lần, sản xuất giấy… và (v) việc chia sẻ lợi ích giữa các tác nhân trong chuỗi chưa công bằng. 

Tại Việt Nam, đũa và vàng mã được biết đến là hai sản phẩm tre bán công nghiệp phổ biến nhất. Nghiên cứu này phân tích đặc điểm của các tác nhân và so sánh hiệu quả tài chính cũng như hiệu quả kinh tế của các tác nhân khác nhau trong chuỗi giá trị đũa và vàng mã. Địa bàn nghiên cứu được lựa chọn tại tỉnh Thanh Hóa – một trong địa phương có diện tích tre lớn nhất cả nước, với Luồng là nguyên liệu chính cho việc sản xuất đũa tre và vàng mã. Dữ liệu được thu thập thông qua phỏng vấn với tám người cung cấp thông tin chính, 12 hộ sản xuất tre, năm thương lái, một doanh nghiệp sản xuất vàng mã, một doanh nghiệp sản xuất đũa và sáu cuộc thảo luận nhóm tập trung. 

Toàn văn bài báo công bố trên tạp chí Trees, Forests and People, 16, 100563.

Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả cho thấy tỷ lệ sử dụng nguyên liệu thô trong chuỗi giá trị đũa thấp, chỉ dưới 20%. Lợi nhuận ròng trên mỗi tấn sản phẩm hoàn thiện của doanh nghiệp chế biến cao hơn nhiều so với lợi nhuận ròng của nông dân và thương lái. Tổng giá trị gia tăng cho chuỗi giá trị đũa và chuỗi giá trị vàng mã lần lượt là 182,5 USD/tấn và 244 USD/tấn. Trong đó, giá trị gia tăng do nông dân và thương lái tạo ra rất thấp, chỉ dưới 10% tổng giá trị gia tăng của toàn chuỗi. 

Đóng góp mới của bài báo

Bằng việc đánh giá tổng thể chuỗi giá trị tre, sử dụng khung phân tích chuỗi giá trị, nghiên cứu có đóng góp đáng kể trong việc đề xuất và phát triển các chính sách liên quan đến ngành tre tại Thanh Hóa nói riêng và Việt Nam nói chung. Từ kết quả nghiên cứu, các phương án khả thi nhằm thúc đẩy hợp tác trong chuỗi giá trị sản phẩm tre và cải thiện hiệu quả hoạt động của các tác nhân trong chuỗi cũng được thảo luận.

Thứ nhất, nâng cao hiệu quả kinh tế của các hộ trồng tre

  • Theo Sở Nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa, một chiến lược hiệu quả để giảm chi phí thu hoạch tre là đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông, bao gồm cả việc xây dựng tuyến đường khai thác. Về vấn đề này, chính quyền địa phương và các doanh nghiệp chế biến đóng vai trò chủ chốt. Điều này xuất phát từ thực tế những người nông dân trồng tre thường thiếu năng lực tài chính và nguồn lực cho những nỗ lực như vậy. 
  • Việc thành lập mối quan hệ liên doanh giữa doanh nghiệp chế biến sản phẩm tre và nông dân là hữu ích. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp có thể đầu tư vào vùng nguyên liệu tre, hỗ trợ nông dân trong việc thu hoạch và duy trì các chứng chỉ liên quan (ví dụ FSC). Đổi lại, các hộ dân ký hợp đồng dài hạn, đảm bảo cung cấp nguyên liệu tre cho các doanh nghiệp này.
  • Đẩy mạnh mô hình hợp tác đầu tư giữa những hộ dân trồng tre thông qua mô hình hợp tác xã, nơi có thể huy động nguồn tài chính để đầu tư vào đường khai thác, máy móc thiết bị và giảm chi phí giao dịch.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh tế của các thương lái

  • Mặc dù đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các giao dịch về tre, là trung gian giữa người trồng tre và doanh nghiệp, nghiên cứu này cho thấy giá trị gia tăng mà thương lái nhận được là ít nhất trong chuỗi giá trị tre luồng. Nguyên nhân chủ yếu là do thương lái thiếu đầu tư vào các hoạt động chế biến, bao gồm cả sơ chế nguyên liệu tre. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động của nhóm tác nhân này, nghiên cứu đề xuất họ tham gia vào công đoạn chế biến sơ cấp. Ví dụ, các doanh nghiệp chế biến có thể cung cấp/hỗ trợ thương lái đầu tư máy móc, để sản xuất các bán thành phẩm cụ thể theo yêu cầu của các nhà máy.

Thứ ba, nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp chế biến

  • Nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn hiệu quả hơn, và từ đó nâng cao khả năng đầu tư của họ vào công nghệ và thiết bị, các thủ tục cho vay cần được đơn giản hóa. Chính quyền địa phương nên có những hỗ trợ cụ thể, ví dụ cử cán bộ có kinh nghiệm tiếp cận các doanh nghiệp nhằm giúp họ hoàn thành thủ tục vay vốn. Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa các nguồn vốn cho nhóm tác nhân này trong chuỗi, thông qua một số công cụ tài chính như hợp tác xã tài chính, hợp tác tín dụng, cho thuê tài chính và công ty bảo hiểm.
  • Thực trạng thiếu hụt lao động, đặc biệt là lao động có tay nghề, tại các doanh nghiệp chế biến đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với sự phối hợp của các bên nhằm thu hút lao động cho lĩnh vực sản xuất này. Doanh nghiệp nên ký kết hợp đồng dài hạn, cải thiện điều kiện làm việc và cung cấp bảo hiểm cho người lao động. Ngoài ra, các chương trình đào tạo nghề để nâng cao kỹ năng của người lao động là cần thiết. Hoạt động này có thể được tạo điều kiện và hỗ trợ bởi chính quyền địa phương và các tổ chức quốc tế.
  • Tăng cường vai trò của nhà nước đối với việc hướng dẫn và hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến sản phẩm tre trong nghiên cứu thị trường, tham gia hội chợ thương mại, quảng bá sản phẩm, phát triển các trang web… 
  • Đẩy mạnh hợp tác giữa các doanh nghiệp nhằm giảm thiếu chất thải sản xuất (ví dụ, các doanh nghiệp sản xuất vàng mã có thể sử dụng chất thải từ quá trình sản xuất đũa làm nguyên liệu thô), giảm chi phí giao dịch và tăng giá trị gia tăng cho chuỗi giá trị tre.

>>> THÔNG TIN BÀI BÁO

Hiep TV, Tham LT, Thong LM (2024): Analyzing economic performance and value added distribution in the Luong bamboo value chain: A case study of Thanh Hoa province, Vietnam”, Trees, Forests and People, 16, 100563. https://doi.org/10.1016/j.tfp.2024.100563  

>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

TS. La Thị Thắm hiện là giảng viên Bộ môn Kinh tế về các vấn đề xã hội, Khoa Kinh tế Chính trị. TS. La Thị Thắm nhận bằng Cử nhân và Thạc sĩ chuyên ngành Tài chính ngân hàng tại Học viện Tài chính. Năm 2021, với học bổng của Chính phủ Việt Nam, cô đã lấy bằng Tiến sĩ về Kinh tế môi trường tại Đại học Kỹ thuật Dresden, Dresden, CHLB Đức. Hướng nghiên cứu chính của TS. La Thị Thắm liên quan đến phát triển bền vững; kinh tế tuần hoàn; kinh tế tài nguyên và môi trường; chuỗi giá trị của các sản phẩm nông, lâm nghiệp; sinh kế và phát triển nông thôn. 

Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 12 năm 2025)

Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 12 năm 2025)

Trân trọng giới thiệu Danh mục bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế của cán bộ, giảng viên Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN năm 2025 (Tính đến tháng 12 ...

Chi tiết
Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 11 năm 2025)

Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 11 năm 2025)

Trân trọng giới thiệu Danh mục bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế của cán bộ, giảng viên Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN năm 2025 (Tính đến tháng 11 ...

Chi tiết
Tác động của đặc điểm hội đồng quản trị đến hiệu suất kinh doanh trong kỷ nguyên 4.0: Nghiên cứu thực nghiệm từ các ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam

Tác động của đặc điểm hội đồng quản trị đến hiệu suất kinh doanh trong kỷ nguyên 4.0: Nghiên cứu thực nghiệm từ các ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam

Nghiên cứu “The Impact of Board Characteristics on Business Performance in the 4.0 Era: Empirical Research from Banks Listed on the Vietnamese Stock Exchange” ...

Chi tiết
Các nhân tố quyết định cải thiện năng suất lao động trong dịch vụ khách sạn: bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam

Các nhân tố quyết định cải thiện năng suất lao động trong dịch vụ khách sạn: bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam

Nghiên cứu “Determinants for labour productivity improvement in hotel service: empirical evidence from Vietnam” là kết quả nghiên cứu của Phan Chí Anh ...

Chi tiết
Tác động của vốn nhân lực và thái độ rủi ro đến quyết định của nông dân về các thực hành canh tác bền vững: Một phân tích tổng hợp

Tác động của vốn nhân lực và thái độ rủi ro đến quyết định của nông dân về các thực hành canh tác bền vững: Một phân tích tổng hợp

Nghiên cứu “Impact of human capital and risk preferences on farmers’ decisions towards sustainable farming practices: A meta-analysis” của Tô Thế Nguyên ...

Chi tiết
Liệu nông dân định hướng cộng đồng có sẵn lòng chuyển đổi sang hữu cơ hơn: Bằng chứng từ Việt Nam

Liệu nông dân định hướng cộng đồng có sẵn lòng chuyển đổi sang hữu cơ hơn: Bằng chứng từ Việt Nam

Bài báo "Do Community-Oriented Farmers Present a Greater Willingness for Organic Transition: Evidence from Vietnam” của Tô Thế Nguyên - giảng viên Trường ...

Chi tiết
Những câu chuyện về rừng? Làm sáng tỏ sự khác biệt giữa Bản đồ Biến động Sử dụng Đất và Thảm phủ (LULCC) và các diễn ngôn của Nhà nước tại vùng cao phía Bắc Việt Nam

Những câu chuyện về rừng? Làm sáng tỏ sự khác biệt giữa Bản đồ Biến động Sử dụng Đất và Thảm phủ (LULCC) và các diễn ngôn của Nhà nước tại vùng cao phía Bắc Việt Nam

Bài báo “Forest Tales? Unravelling Divergent Land Use and Land Cover Change (LULCC) Maps and State Narratives in Vietnam’s Northern Uplands” của Nguyễn ...

Chi tiết
Xây dựng các chỉ số để quản lý tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới tại Khu vực Tam giác Phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam dựa trên ý kiến chuyên gia sử dụng phương pháp Delphi

Xây dựng các chỉ số để quản lý tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới tại Khu vực Tam giác Phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam dựa trên ý kiến chuyên gia sử dụng phương pháp Delphi

Nghiên cứu “Building indicators for trans-boundary natural resource management in the Cambodia–Laos–Vietnam Development Triangle Area based on experts’ ...

Chi tiết
Tác động của trách nhiệm xã hội đến lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội, Việt Nam

Tác động của trách nhiệm xã hội đến lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội, Việt Nam

Bài viết “The impact of social responsibility on the competitive advantage of small and medium-sized enterprises in Hanoi, Vietnam” của Đỗ Thị Thơ - giảng ...

Chi tiết