Trong bối cảnh số hóa toàn cầu đang tái định hình dòng chảy thương mại và đầu tư, nhiều quốc gia vẫn áp dụng những rào cản đối với thương mại dịch vụ số, làm dấy lên câu hỏi về hệ quả kinh tế - xã hội rộng lớn. Nghiên cứu “FDI and Income Inequality: Do Digital Service Trade Restrictions Matter?” của TS. Nguyễn Đình và TS. Đỗ Thị Minh Huệ - giảng viên Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN công bố trên tạp chí Journal of International Commerce, Economics and Policy, dựa trên Chỉ số Hạn chế Thương mại Số (DTRI) và dữ liệu của 68 quốc gia, chỉ ra rằng các hạn chế nghiêm ngặt có thể làm suy giảm, thậm chí đảo ngược tác động tích cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong việc thu hẹp bất bình đẳng thu nhập. Đặc biệt, trong khi quy định chặt chẽ về giao dịch điện tử chủ yếu làm yếu đi hiệu quả phân bổ công bằng của FDI, thì những hạn chế về hạ tầng và kết nối lại có nguy cơ làm gia tăng chênh lệch giàu nghèo. Kết quả này cho thấy tính cấp thiết của một khuôn khổ chính sách thương mại số cân bằng, vừa đảm bảo an ninh và quyền lợi quốc gia, vừa tối đa hóa lợi ích bao trùm từ FDI.
Quá trình số hóa nhanh chóng của các nền kinh tế toàn cầu đã làm thay đổi dòng chảy thương mại và đầu tư, tuy nhiên nhiều quốc gia vẫn duy trì các chính sách hạn chế đối với thương mại dịch vụ số, đặt ra những câu hỏi quan trọng về tác động kinh tế rộng hơn của chúng. Sử dụng Chỉ số Hạn chế Thương mại Số (Digital Trade Restrictiveness Index – DTRI) mới được phát triển, nghiên cứu này xem xét cách các hạn chế này điều tiết mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và bất bình đẳng thu nhập. Dựa trên phân tích hồi quy bảng và phân tích biên dự báo (predictive margins) trên mẫu gồm 68 quốc gia, kết quả cho thấy rằng các hạn chế nghiêm ngặt hơn đối với thương mại số làm suy giảm đáng kể tác động giảm bất bình đẳng của FDI. Đáng chú ý, hiệu ứng điều tiết này khác nhau giữa năm khía cạnh của hạn chế thương mại số. Trong khi các quy định nghiêm ngặt về giao dịch điện tử chủ yếu làm suy yếu tác động tích cực của FDI trong việc giảm bất bình đẳng, thì những hạn chế nghiêm trọng hơn về hạ tầng và kết nối không chỉ cản trở mà còn làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng. Những phát hiện này nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết về các chính sách thương mại số cân bằng, nhằm thúc đẩy tăng trưởng bao trùm bằng cách tối đa hóa lợi ích phân bổ công bằng từ FDI, đồng thời vẫn giải quyết các mối quan ngại chính đáng về quy định.
Đóng góp mới của bài báo:
Thứ nhất, đây là nghiên cứu đầu tiên xem xét vai trò điều tiết của các hạn chế thương mại dịch vụ số đối với mối quan hệ giữa FDI và bất bình đẳng thu nhập. Bằng cách giải quyết khoảng trống này, nghiên cứu đã mở rộng hướng tiếp cận về các yếu tố tiềm năng có thể điều tiết mối quan hệ trên.
Thứ hai, việc sử dụng một thước đo mới và toàn diện về hạn chế thương mại dịch vụ số cho phép xác định chính xác các lĩnh vực cụ thể trong hệ thống quy định này có thể cản trở hoặc thậm chí đảo ngược tác động tích cực của FDI đối với bất bình đẳng thu nhập.
Thứ ba, nghiên cứu này còn đóng góp vào tài liệu nghiên cứu về tác động kinh tế của các rào cản đối với thương mại dịch vụ số. Trong khi các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào các tác động của các hạn chế kỹ thuật số đối với thương mại, đổi mới sáng tạo và tăng trưởng, nghiên cứu này mở rộng phân tích sang khía cạnh bất bình đẳng thu nhập, từ đó mang lại những hiểu biết mới về các hệ quả kinh tế - xã hội rộng hơn của chính sách thương mại số. Các phát hiện của nghiên cứu nhấn mạnh sự cần thiết của các cách tiếp cận điều tiết cân bằng, vừa bảo vệ lợi ích quốc gia chính đáng như an ninh dữ liệu và quyền riêng tư của người tiêu dùng, vừa giảm thiểu các hệ quả ngoài mong muốn đối với công bằng kinh tế.
Hàm ý chính sách
Thứ nhất, do các hạn chế nghiêm ngặt đối với giao dịch điện tử làm suy giảm đáng kể lợi ích của FDI trong việc giảm bất bình đẳng thu nhập, các nhà hoạch định chính sách nên cân nhắc cắt giảm những rào cản pháp lý không cần thiết trong lĩnh vực này.
Thứ hai, các nhà hoạch định chính sách cần đầu tư chiến lược vào việc nâng cấp hạ tầng số, đặc biệt là mở rộng kết nối tới các khu vực nông thôn và vùng sâu vùng xa chưa được phục vụ đầy đủ.
>>> THÔNG TIN BÀI BÁO
Nguyen Dinh Trung, Do Thi Minh Hue (2025). FDI and Income Inequality: Do Digital Service Trade Restrictions Matter? Journal of International Commerce, Economics and Policy. https://doi.org/10.1142/S1793993325500140
>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
![]() | TS. Nguyễn Đình Trung hiện giảng dạy và nghiên cứu tại Bộ môn Ngân hàng, Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Ông tốt nghiệp tiến sĩ tài chính tại Australia, Thạc sĩ Kinh tế học Tài chính tại Australia, đồng thời có hai bằng cử nhân về Toán kinh tế và Kinh tế học. Trước khi công tác tại Trường ĐHKT, ông đã có nhiều năm làm công tác nghiên cứu tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. |
![]() | ThS. Đỗ Thị Minh Huệ hiện là giảng viên Bộ môn Thống kê và Phương pháp nghiên cứu kinh tế, Khoa Kinh tế Phát triển. Bà tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Kinh tế và Thương mại, Trường Đại học Calabria (Ý) năm 2019, có bằng cử nhân ngành Ngân hàng - Tài chính, Đại học Kinh tế quốc dân năm 2015. Hiện bà đang làm nghiên cứu sinh tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế quốc tế tại Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, với định hướng nghiên cứu chính là các vấn đề liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài và thương mại quốc tế. Trước khi công tác tại Trường ĐHKT, ThS. Đỗ Thị Minh Huệ đã tích lũy nhiều kinh nghiệm thực tiễn tại các đơn vị trong nước và quốc tế như KMG Vietnam Co., Ltd, Travel & Event Co., Ltd., Tập đoàn Hiệp Hưng… |
Nghiên cứu “The role of mindfulness in promoting purchase intention” của Nguyễn Thu Hà, Hoàng Đàm Lương Thúy và cộng sự công bố trên Spanish Journal of ...
Chi tiếtBài nghiên cứu “Chief Financial Officer Overconfidence and Earnings Management” của Nguyễn Huy Tâm và cộng sự công bố trên tạp chí Accounting Forum (2023) ...
Chi tiếtBài nghiên cứu “CEO Gender Perspectives in Climate and Environmental Governance: A Systematic Literature Review and Bibliometric Analysis” của Nguyễn Huy ...
Chi tiếtNghiên cứu “Factors influencing residents’ willingness to pay for mangrove forest environmental services in Phu Long, Vietnam” của Lưu Quốc Đạt - giảng ...
Chi tiếtNghiên cứu “Households’ willingness-to-pay for mangrove environmental services: Evidence from Phu Long, Northeast Vietnam” của Lưu Quốc Đạt - giảng viên ...
Chi tiếtBài nghiên cứu “The impact of social responsibility on the competitive advantage of small and medium-sized enterprises in Hanoi, Vietnam” của Nguyễn Đình ...
Chi tiếtNghiên cứu “The Impact of Innovation-Driven Digital Transformation on Export Performance of SMEs” của Đỗ Thị Thơ - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và ...
Chi tiếtQuá trình chuyển đổi rừng ở Việt Nam đang hướng tới nâng cao chất lượng rừng trồng, hiệu quả kinh tế và dịch vụ môi trường, song vẫn đối mặt nhiều yếu ...
Chi tiếtSinh kế của nông hộ và tính bền vững môi trường là hai vấn đề trọng tâm của nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh đất đai thoái hóa do canh tác thâm canh ...
Chi tiết