Bài nghiên cứu “Factors affecting dividend policy of listed manufacturing enterprises: A governance context” của TS. Nguyễn Thị Thanh Hải - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và cộng sự công bố trên Journal of Governance and Regulation Vol. 14, No. 2 (2025) tập trung phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách cổ tức của các doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE) trong bối cảnh quản trị doanh nghiệp. Dựa trên dữ liệu từ 74 doanh nghiệp trong giai đoạn 2018-2022, nghiên cứu chia giai đoạn phân tích thành ba thời kỳ: trước đại dịch COVID-19 (2018–2019), trong đại dịch (2020–2021), và sau đại dịch (2022). Bằng cách sử dụng mô hình OLS và hệ thống GMM, nhóm tác giả đã kiểm định tác động của năm yếu tố tài chính đến chính sách cổ tức, bao gồm: tỷ lệ cổ tức tiền mặt năm trước (DPR), thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS), lợi nhuận trên tài sản (ROA), tốc độ tăng trưởng doanh thu, và thanh khoản.
Kết quả chỉ ra rằng DPR của năm trước là yếu tố có ảnh hưởng mạnh và ổn định nhất đến chính sách cổ tức trong tất cả các giai đoạn. EPS và ROA cũng cho thấy tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê đến xu hướng chia cổ tức, đặc biệt là trong và sau đại dịch. Ngược lại, tốc độ tăng trưởng doanh thu lại có ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách cổ tức trước đại dịch nhưng trở nên không đáng kể trong các giai đoạn sau. Đáng chú ý, thanh khoản không thể hiện vai trò đáng kể trong bất kỳ thời kỳ nào. Bên cạnh các yếu tố tài chính, bài nghiên cứu cũng làm nổi bật vai trò của môi trường quản trị – đặc biệt là vấn đề bảo vệ cổ đông thiểu số – trong việc định hình chính sách cổ tức.
Đóng góp mới của bài báo:
Khuyến nghị và tư vấn:
Đối với doanh nghiệp:
Đối với nhà đầu tư:
Đối với nhà quản trị và sở hữu:
Hàm ý chính sách
1. Chuẩn hóa việc công bố chính sách cổ tức và chỉ tiêu DPR trong báo cáo thường niên và báo cáo quản trị công ty. Việc yêu cầu doanh nghiệp công khai tỷ lệ chia cổ tức, mức cổ tức kỳ trước và các lý do điều chỉnh (nếu có) sẽ nâng cao tính minh bạch, giúp nhà đầu tư dễ dàng đánh giá tính nhất quán và năng lực tài chính của doanh nghiệp.
2. Tăng cường bảo vệ cổ đông thiểu số thông qua khung quản trị doanh nghiệp. Cần có các tiêu chuẩn bắt buộc về thành lập tiểu ban kiểm toán, công bố quyền biểu quyết và chia sẻ thông tin để đảm bảo lợi ích của nhóm cổ đông nhỏ lẻ không bị xói mòn bởi các quyết định thiên lệch từ cổ đông lớn hoặc ban điều hành.
3. Xây dựng chỉ số “ổn định cổ tức” trong hệ thống xếp hạng doanh nghiệp niêm yết, từ đó thúc đẩy hành vi tài chính lành mạnh. Một chỉ số phản ánh mức độ đều đặn trong chia cổ tức, tính theo chuỗi thời gian, có thể trở thành tiêu chí phụ trong bảng xếp hạng doanh nghiệp tốt, bên cạnh các chỉ số lợi nhuận, thanh khoản hay quản trị ESG.
4. Khuyến khích áp dụng các mô hình định lượng hiện đại trong ra quyết định tài chính. Các cơ quan quản lý và hiệp hội nghề nghiệp (như VACPA, UBCKNN) có thể tổ chức các chương trình đào tạo về mô hình GMM, xử lý nội sinh, hồi quy động... nhằm nâng cao năng lực ra quyết định tài chính cho đội ngũ CFO, kiểm toán nội bộ, và thành viên hội đồng quản trị.
5. Đề xuất chính sách cổ tức linh hoạt theo giai đoạn kinh tế. Trong các thời kỳ khủng hoảng như đại dịch COVID-19, cơ quan quản lý có thể ban hành các hướng dẫn về cổ tức tối thiểu, cho phép doanh nghiệp điều chỉnh chính sách theo dòng tiền thực tế mà không làm mất lòng tin thị trường, đồng thời khuyến khích minh bạch về chiến lược sử dụng lợi nhuận giữ lại.
>>> THÔNG TIN BÀI BÁO
Tran, T. N., Duong, D. V., Nguyen Thi, T. H., Do Thi, N. L., Truong, D. D., Nguyen, V. H., & Pham Thi, T. T. (2025). Factors affecting dividend policy of listed manufacturing enterprises: A governance context. Journal of Governance & Regulation, 14(2), 38–48. https://doi.org/10.22495/jgrv14i2art4
>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
![]() | TS. Nguyễn Thị Thanh Hải tốt nghiệp Cử nhân ngành Kế toán tại Học viện Tài chính năm 2001; nhận bằng Tiến sĩ Kinh tế năm 2014 tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Là giảng viên bộ môn Kế toán - Khoa Kế toán Kiểm toán, Ủy viên Ban chấp hành Công đoàn Trường Đại học Kinh tế, ĐHQGHN. Giải Nhì cuộc thi Giáo viên dạy giỏi cấp Thành phố năm 2006; giải Nhất cuộc thi Giáo viên dạy giỏi cấp Thành phố năm 2009. Có một số sáng kiến kinh nghiệm đạt giải cấp Sở. Tham gia viết sách chuyên khảo, tài liệu học tập chuyên ngành. Là thư ký, thành viên một số đề tài nghiên cứu tại các tỉnh. |
Nghiên cứu “An insight into the implications of investor sentiment on crash risk in Asia–Pacific stock markets: are uncertainty factors important?” của ...
Chi tiếtBài báo “Determinants of apartment price volatility in Vietnam: a comparison between Hanoi and Ho Chi Minh City” của PGS.TS. Nguyễn Thị Nhung - giảng viên ...
Chi tiếtBài báo “Assessment of Current Situation and Orientations for Exploitation, Utilization, and Protection of Groundwater Resources in Water–Scarce Areas ...
Chi tiếtBài báo “Middle-income traps: Experiences of Asian countries and lessons for Vietnam” của TS. Hoàng Xuân Vinh - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và nhóm ...
Chi tiếtBài báo “How to Win Consumer Intention in E-Commerce Platform in a High-Cost Urban City: A Case Study of Hanoi” của TS. Trần Thị Mai Thành - giảng viên ...
Chi tiếtNghiên cứu "The impact of provincial‑level institutional quality on attracting foreign direct investment in the Red River Delta provinces" của TS. Trần ...
Chi tiếtNghiên cứu "Enhancing Trade Facilitation to Boost Manufactured Goods Trade in Vietnam: A Case Study of a Transition Economy" của nhóm tác giả Nguyễn Anh ...
Chi tiếtNgành dệt may là một trong những ngành chủ đạo của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Ở Việt Nam, ngành dệt may có vai trò quan trọng như góp phần đảm ...
Chi tiếtThiếu hụt tài chính là một trong những nguyên nhân chính khiến nhiều dự án bảo vệ môi trường kém hiệu quả hoặc thất bại. Trong bối cảnh ngân sách nhà nước ...
Chi tiết