Trong bối cảnh ESG (Môi trường – Xã hội – Quản trị) ngày càng trở thành chuẩn mực toàn cầu về phát triển bền vững, việc hiểu rõ các yếu tố chi phối mức độ công bố ESG của doanh nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bài báo "Financial determinants of ESG disclosures: An empirical analysis of Thailand" của TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy - giảng viên Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN và các tác giả công bố trên Proceedings of the 5th International Conference on Research in Management and Technovation (ICRMAT 2024) tập trung phân tích vai trò của khả năng sinh lời, hiệu quả tài chính, quy mô doanh nghiệp, cấu trúc nợ và định giá thị trường đối với mức độ minh bạch ESG. Thông qua dữ liệu từ các công ty niêm yết tại Thái Lan giai đoạn 2018-2022, nghiên cứu không chỉ cung cấp bằng chứng thực nghiệm mới cho bối cảnh thị trường mới nổi mà còn gợi mở hàm ý chính sách và quản trị quan trọng cho doanh nghiệp, nhà đầu tư và cơ quan quản lý.
Bài nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố tài chính ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin ESG (Môi trường, Xã hội và Quản trị) của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Thái Lan. Cụ thể, nghiên cứu phân tích tác động của các biến tài chính gồm: khả năng sinh lời (profitability), hiệu quả tài chính (financial effectiveness), định giá thị trường (market valuation), mức độ vay nợ (financial debt), và quy mô doanh nghiệp (company magnitude) đến mức độ công bố ESG.
Dựa trên bộ dữ liệu gồm 385 quan sát (firm-year) từ 77 doanh nghiệp trong giai đoạn 2018–2022, nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê mô tả, phân tích tương quan và hồi quy đa biến để kiểm định 5 giả thuyết liên quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng sinh lời (đo bằng EPS) và hiệu quả tài chính (tốc độ tăng trưởng doanh thu) có tác động tích cực rõ rệt đến mức độ công bố ESG. Ngoài ra, quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng tích cực đáng kể và nhất quán trong tất cả các nhóm phân loại ESG và tác động của nợ tài chính là hỗn hợp có ảnh hưởng tiêu cực đến ESG đối với nhóm doanh nghiệp xếp hạng trung bình (Rank B), nhưng lại tích cực với nhóm xếp hạng thấp hơn (Rank C).
Đóng góp mới của bài báo:
Thứ nhất, mở rộng nghiên cứu ESG trong bối cảnh thị trường mới nổi: Bài nghiên cứu đóng góp đáng kể vào kho tàng học thuật về ESG khi tập trung vào Thái Lan – một thị trường mới nổi trong khu vực Đông Nam Á, nơi mà các nghiên cứu thực nghiệm về ESG vẫn còn hạn chế. Kết quả nghiên cứu giúp mở rộng hiểu biết về động lực tài chính thúc đẩy công bố ESG trong một hệ sinh thái doanh nghiệp khác biệt về thể chế và văn hóa so với các thị trường phát triển.
Thứ hai, làm rõ vai trò của các yếu tố tài chính trong công bố ESG: Nghiên cứu không chỉ xem xét từng yếu tố tài chính riêng lẻ mà còn phân tích tác động phân tầng theo mức xếp hạng ESG (Rank B và Rank C). Việc phát hiện mối liên hệ trái chiều của nợ tài chính với các nhóm doanh nghiệp có mức xếp hạng ESG khác nhau là một đóng góp mới, làm sáng tỏ tính phức tạp trong mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và hành vi công bố ESG.
Thứ ba, kết hợp lý thuyết nguồn lực và lý thuyết đại diện trong phân tích ESG: Việc kết hợp Thuyết nguồn lực (Resource-Based View) và Thuyết đại diện (Agency Theory) giúp giải thích sâu sắc hơn động cơ và khả năng thực hiện công bố ESG. Điều này không chỉ giúp lý giải hiện tượng thực nghiệm mà còn cung cấp một khung lý thuyết linh hoạt và có thể áp dụng cho các quốc gia đang phát triển.
Khuyến nghị và tư vấn:
Đối với doanh nghiệp:
Đối với nhà đầu tư:
Đối với cơ quan quản lý và các sàn giao dịch:
Hàm ý chính sách
Thứ nhất, khuyến khích công bố ESG gắn với hiệu quả tài chính: Cơ quan quản lý nên phát triển các chương trình đào tạo hoặc hướng dẫn giúp doanh nghiệp hiểu rõ vai trò của khả năng sinh lời và tăng trưởng tài chính trong việc nâng cao chất lượng công bố ESG; Cần ban hành bộ chỉ số ESG có kết nối chặt chẽ với dữ liệu tài chính để đảm bảo tính minh bạch và khả năng kiểm chứng.
Thứ hai, phân loại hỗ trợ doanh nghiệp theo nhóm ESG và quy mô: Các chính sách hỗ trợ hoặc ưu đãi ESG nên được thiết kế linh hoạt theo từng nhóm doanh nghiệp (Rank B, Rank C) và theo quy mô, để phân bổ nguồn lực công bằng và hiệu quả hơn; Cơ quan chức năng có thể ban hành các tiêu chí đánh giá mức độ sẵn sàng ESG theo từng cấp độ phát triển tài chính của doanh nghiệp.
Thứ ba, khuyến khích độc lập hóa hội đồng quản trị: Cần khuyến khích nhà đầu tư tổ chức và các quỹ hưu trí đóng vai trò giám sát ESG bằng cách gắn cam kết công bố ESG vào các điều kiện tài trợ hoặc mua cổ phần; Việc tăng cường đối thoại chính sách giữa các doanh nghiệp, nhà đầu tư và cơ quan quản lý sẽ góp phần xây dựng khung công bố ESG phù hợp với thực tiễn tài chính của từng quốc gia.
>>> THÔNG TIN BÀI BÁO
Terdpaopong, K., Nguyen, T.T.H., Yang, Y. (2025). Financial Determinants of ESG Disclosures: An Empirical Analysis of Thailand. In: Nguyen, N.T.H., Santos, J.A.C., Solanki, V.K., Mai, A.N. (eds) Proceedings of the 5th International Conference on Research in Management and Technovation. ICRMAT 2024. Springer Proceedings in Business and Economics. Springer, Singapore. https://doi.org/10.1007/978-981-97-9992-3_20
>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
![]() | TS. Nguyễn Thị Hồng Thúy hiện là Trưởng Khoa Kế toán Kiểm toán, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Bà có nhiều năm công tác trong lĩnh vực giáo dục, từ Giảng viên Bộ môn Kiểm toán Khoa Kế toán (1999-2003), Phó trưởng Bộ môn Bộ môn Kiểm toán Khoa Kế toán (2003-2008), Giảng viên Bộ môn Kiểm toán Khoa Kế toán (2008-2018), Trưởng Khoa Kế toán Kiểm toán (2018-nay), Trưởng khoa Tài chính Ngân hàng (2024 - nay).
|
Nghiên cứu “The role of mindfulness in promoting purchase intention” của Nguyễn Thu Hà, Hoàng Đàm Lương Thúy và cộng sự công bố trên Spanish Journal of ...
Chi tiếtBài nghiên cứu “Chief Financial Officer Overconfidence and Earnings Management” của Nguyễn Huy Tâm và cộng sự công bố trên tạp chí Accounting Forum (2023) ...
Chi tiếtBài nghiên cứu “CEO Gender Perspectives in Climate and Environmental Governance: A Systematic Literature Review and Bibliometric Analysis” của Nguyễn Huy ...
Chi tiếtNghiên cứu “Factors influencing residents’ willingness to pay for mangrove forest environmental services in Phu Long, Vietnam” của Lưu Quốc Đạt - giảng ...
Chi tiếtNghiên cứu “Households’ willingness-to-pay for mangrove environmental services: Evidence from Phu Long, Northeast Vietnam” của Lưu Quốc Đạt - giảng viên ...
Chi tiếtBài nghiên cứu “The impact of social responsibility on the competitive advantage of small and medium-sized enterprises in Hanoi, Vietnam” của Nguyễn Đình ...
Chi tiếtNghiên cứu “The Impact of Innovation-Driven Digital Transformation on Export Performance of SMEs” của Đỗ Thị Thơ - giảng viên Trường Đại học Kinh tế và ...
Chi tiếtQuá trình chuyển đổi rừng ở Việt Nam đang hướng tới nâng cao chất lượng rừng trồng, hiệu quả kinh tế và dịch vụ môi trường, song vẫn đối mặt nhiều yếu ...
Chi tiếtSinh kế của nông hộ và tính bền vững môi trường là hai vấn đề trọng tâm của nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh đất đai thoái hóa do canh tác thâm canh ...
Chi tiết