BÀI BÁO QUỐC TẾ

Ảnh hưởng của quyền sở hữu và kiểm soát đến trách nhiệm xã hội doanh nghiệp tại Đông Á

P. NCKH&HTPT tổng hợp 10:27 20/08/2025

Trong bối cảnh Đông Á được xem là khu vực có đặc trưng sở hữu tập trung, ảnh hưởng lớn từ cổ đông gia đình và nhà nước, câu hỏi về mối quan hệ giữa quyền sở hữu, quyền kiểm soát và trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) ngày càng được quan tâm. Bài báo “The influence of ownership and control on corporate social responsibility in East Asia" của TS. Nguyễn Huy Tâm và cộng sự công bố trên tạp chí Corporate Governance: An International Review (CGIR) (2024) phân tích dữ liệu hơn 2.400 công ty tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Kết quả cho thấy khi quyền kiểm soát vượt quá quyền sở hữu, mức độ thực hiện CSR có xu hướng giảm, đặc biệt ở doanh nghiệp gia đình và nhà nước; đồng thời nhấn mạnh vai trò quan trọng của cơ chế giám sát nội bộ trong thúc đẩy phát triển bền vững.

Bài báo nghiên cứu tác động của cấu trúc sở hữu và kiểm soát doanh nghiệp đối với mức độ thực hiện trách nhiệm xã hội (CSR), đặc biệt trong bối cảnh các quốc gia Đông Á – nơi có đặc trưng về quyền sở hữu tập trung và ảnh hưởng lớn từ gia đình hoặc nhà nước trong doanh nghiệp.

Tác giả phân biệt rõ giữa hai yếu tố: (1) quyền sở hữu (ownership rights – tỷ lệ cổ phần nắm giữ) và (2) quyền kiểm soát (control rights – khả năng ảnh hưởng đến quyết định chiến lược), đồng thời đánh giá chênh lệch giữa chúng (divergence) trong mối quan hệ với mức độ CSR. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ hơn 2.400 công ty niêm yết tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan trong giai đoạn 2010–2019, với thông tin CSR lấy từ cơ sở dữ liệu Asset4 ESG (Refinitiv). 

Kết quả nghiên cứu cho thấy sự chênh lệch lớn giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát (excess control) thường dẫn đến giảm mức độ thực hiện CSR, đặc biệt khi quyền kiểm soát không đi kèm với quyền sở hữu thực chất. Trong các doanh nghiệp có sở hữu gia đình hoặc sở hữu nhà nước, tác động tiêu cực này càng rõ rệt. Tuy nhiên, nếu trong cấu trúc doanh nghiệp có thành viên độc lập trong hội đồng quản trị hoặc có cơ chế giám sát hiệu quả, tác động tiêu cực này sẽ được điều tiết.

Đóng góp mới của bài báo:

Mở rộng lý thuyết đại diện trong bối cảnh sở hữu tập trung tại Đông Á: Bài nghiên cứu cung cấp bằng chứng rằng các vấn đề đại diện không chỉ phát sinh giữa cổ đông và nhà quản lý (mô hình phương Tây), mà còn nghiêm trọng trong mô hình Đông Á – nơi cổ đông kiểm soát có thể lạm dụng quyền lực nếu không sở hữu thực chất. Điều này mở rộng hàm ý lý thuyết về "Type II agency problem" (giữa cổ đông lớn và cổ đông nhỏ).

Phân biệt giữa “quyền sở hữu” và “quyền kiểm soát” trong tác động đến CSR: Thay vì chỉ đo lường sở hữu bằng tỷ lệ cổ phần, bài báo đi sâu đo lường chênh lệch giữa quyền kiểm soát và sở hữu (control–ownership wedge), từ đó làm rõ động cơ và năng lực thực hiện CSR. Đây là một cải tiến đáng kể so với các nghiên cứu trước vốn thường dùng cấu trúc sở hữu như biến đơn nhất.

Bổ sung bằng chứng khu vực Đông Á trong nghiên cứu CSR – CG: Trong bối cảnh hầu hết các nghiên cứu CSR và quản trị doanh nghiệp trước đây tập trung vào Mỹ và châu Âu, bài báo mang lại giá trị thực nghiệm mới từ các nền kinh tế Đông Á – nơi cơ chế pháp lý và mô hình sở hữu rất khác biệt. Điều này có ý nghĩa quan trọng cho việc “bản địa hóa” chiến lược CSR phù hợp với đặc trưng vùng miền.

Kiểm định vai trò điều tiết của cơ chế giám sát nội bộ: Nghiên cứu chỉ ra rằng những doanh nghiệp có nhiều thành viên HĐQT độc lập, có kiểm toán viên Big Four hoặc có hội đồng kiểm toán hoạt động hiệu quả, thì ảnh hưởng tiêu cực của quyền kiểm soát vượt quá quyền sở hữu đến CSR sẽ giảm. Đây là bằng chứng thực nghiệm mạnh mẽ cho vai trò của cơ chế giám sát nội bộ đối với chiến lược CSR.

Khuyến nghị và tư vấn:

Đối với doanh nghiệp

  • Doanh nghiệp nên đảm bảo sự hài hòa giữa quyền kiểm soát và quyền sở hữu, tránh để tình trạng "kiểm soát vượt quyền sở hữu" kéo dài vì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến chiến lược phát triển bền vững và hình ảnh doanh nghiệp.
  • Cần tăng cường sự độc lập và chuyên môn hóa của hội đồng quản trị, đặc biệt là thành viên độc lập trong bối cảnh sở hữu tập trung hoặc có yếu tố nhà nước/gia đình chi phối.

Đối với nhà đầu tư:

  • Khi đánh giá ESG hoặc CSR, nhà đầu tư nên xem xét không chỉ mức độ công bố thông tin mà còn phân tích cấu trúc sở hữu và kiểm soát trong doanh nghiệp.
  • Cần tăng cường vai trò giám sát thông qua quyền biểu quyết, yêu cầu cải thiện minh bạch và cơ chế phản hồi cổ đông trong các doanh nghiệp có mức chênh lệch cao giữa kiểm soát và sở hữu.

Đối với cơ quan quản lý và các sàn giao dịch

  • Nên ban hành quy định bắt buộc công bố tỷ lệ quyền kiểm soát và quyền sở hữu của cổ đông lớn.
  • Khuyến khích hoặc bắt buộc doanh nghiệp công bố mức độ độc lập của hội đồng quản trị và cơ chế kiểm soát nội bộ như một phần trong báo cáo bền vững hoặc CG report.

Hàm ý chính sách

Cần sửa đổi quy định công bố thông tin sở hữu và kiểm soát: Cơ quan quản lý nên yêu cầu doanh nghiệp công bố rõ ràng cơ cấu sở hữu và quyền kiểm soát thực tế, đặc biệt là khi có sử dụng cấu trúc phức tạp như công ty mẹ–con, công ty chéo vốn hoặc cổ phiếu không có quyền biểu quyết.

Thúc đẩy quản trị theo hướng bảo vệ cổ đông thiểu số: Đặc biệt tại các quốc gia Đông Á, nơi sở hữu tập trung là phổ biến, cần có cơ chế tăng quyền biểu quyết cho cổ đông thiểu số, hạn chế tình trạng lạm quyền từ cổ đông kiểm soát.

Khuyến khích độc lập hóa hội đồng quản trị: Thông qua các chính sách như ưu đãi niêm yết, xếp hạng quản trị hoặc điểm ESG cao hơn cho doanh nghiệp có tỷ lệ thành viên độc lập cao và có hệ thống kiểm toán nội bộ hiệu quả.

Tích hợp chênh lệch kiểm soát – sở hữu vào hệ thống đánh giá ESG: Đây nên được xem là một trong các tiêu chí xếp hạng doanh nghiệp ESG để phản ánh mức độ cam kết thực chất với CSR chứ không chỉ dựa vào số lượng thông tin công bố.

 

>>> THÔNG TIN BÀI BÁO

Chen, S-Y, Adegbite, E, Muthuri, J and Nguyen, T, 2024. The influence of ownership and control on corporate social responsibility in East Asia. Corporate Governance: An International Review. ISSN 0964-8410 (Forthcoming). 

>>> THÔNG TIN TÁC GIẢ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

Nguyễn Huy Tâm là Tiến sĩ Kế toán - Kiểm toán, hiện là giảng viên Bộ môn Kiểm toán, Khoa Kế toán - Kiểm toán, Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN. Hướng nghiên cứu chính của TS. Nguyễn Huy Tâm gồm: Kế toán, Kiểm toán, Tài chính.

Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 12 năm 2025)

Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 12 năm 2025)

Trân trọng giới thiệu Danh mục bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế của cán bộ, giảng viên Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN năm 2025 (Tính đến tháng 12 ...

Chi tiết
Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 11 năm 2025)

Danh mục bài báo quốc tế của giảng viên Trường Đại học Kinh tế năm 2025 (Tính đến tháng 11 năm 2025)

Trân trọng giới thiệu Danh mục bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế của cán bộ, giảng viên Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN năm 2025 (Tính đến tháng 11 ...

Chi tiết
Tác động của đặc điểm hội đồng quản trị đến hiệu suất kinh doanh trong kỷ nguyên 4.0: Nghiên cứu thực nghiệm từ các ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam

Tác động của đặc điểm hội đồng quản trị đến hiệu suất kinh doanh trong kỷ nguyên 4.0: Nghiên cứu thực nghiệm từ các ngân hàng niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam

Nghiên cứu “The Impact of Board Characteristics on Business Performance in the 4.0 Era: Empirical Research from Banks Listed on the Vietnamese Stock Exchange” ...

Chi tiết
Các nhân tố quyết định cải thiện năng suất lao động trong dịch vụ khách sạn: bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam

Các nhân tố quyết định cải thiện năng suất lao động trong dịch vụ khách sạn: bằng chứng thực nghiệm từ Việt Nam

Nghiên cứu “Determinants for labour productivity improvement in hotel service: empirical evidence from Vietnam” là kết quả nghiên cứu của Phan Chí Anh ...

Chi tiết
Tác động của vốn nhân lực và thái độ rủi ro đến quyết định của nông dân về các thực hành canh tác bền vững: Một phân tích tổng hợp

Tác động của vốn nhân lực và thái độ rủi ro đến quyết định của nông dân về các thực hành canh tác bền vững: Một phân tích tổng hợp

Nghiên cứu “Impact of human capital and risk preferences on farmers’ decisions towards sustainable farming practices: A meta-analysis” của Tô Thế Nguyên ...

Chi tiết
Liệu nông dân định hướng cộng đồng có sẵn lòng chuyển đổi sang hữu cơ hơn: Bằng chứng từ Việt Nam

Liệu nông dân định hướng cộng đồng có sẵn lòng chuyển đổi sang hữu cơ hơn: Bằng chứng từ Việt Nam

Bài báo "Do Community-Oriented Farmers Present a Greater Willingness for Organic Transition: Evidence from Vietnam” của Tô Thế Nguyên - giảng viên Trường ...

Chi tiết
Những câu chuyện về rừng? Làm sáng tỏ sự khác biệt giữa Bản đồ Biến động Sử dụng Đất và Thảm phủ (LULCC) và các diễn ngôn của Nhà nước tại vùng cao phía Bắc Việt Nam

Những câu chuyện về rừng? Làm sáng tỏ sự khác biệt giữa Bản đồ Biến động Sử dụng Đất và Thảm phủ (LULCC) và các diễn ngôn của Nhà nước tại vùng cao phía Bắc Việt Nam

Bài báo “Forest Tales? Unravelling Divergent Land Use and Land Cover Change (LULCC) Maps and State Narratives in Vietnam’s Northern Uplands” của Nguyễn ...

Chi tiết
Xây dựng các chỉ số để quản lý tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới tại Khu vực Tam giác Phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam dựa trên ý kiến chuyên gia sử dụng phương pháp Delphi

Xây dựng các chỉ số để quản lý tài nguyên thiên nhiên xuyên biên giới tại Khu vực Tam giác Phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam dựa trên ý kiến chuyên gia sử dụng phương pháp Delphi

Nghiên cứu “Building indicators for trans-boundary natural resource management in the Cambodia–Laos–Vietnam Development Triangle Area based on experts’ ...

Chi tiết
Tác động của trách nhiệm xã hội đến lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội, Việt Nam

Tác động của trách nhiệm xã hội đến lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Hà Nội, Việt Nam

Bài viết “The impact of social responsibility on the competitive advantage of small and medium-sized enterprises in Hanoi, Vietnam” của Đỗ Thị Thơ - giảng ...

Chi tiết